CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM A.
Chúa Nhật: Mt 26,14 – 27,66 (bài dài) + Chúa Nhật 02/04/2022 – Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu. 02/04 – CHÚA NHẬT LỄ LÁ năm A. "Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Lời Chúa: Mt 26,14 - 27,66 (bài dài) C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ: S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người trả lời rằng: J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?" C. Chúa đáp: J. "Ðúng như con nói". C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta". C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán: J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy". C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô liền thưa: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần". C. Phêrô lại thưa: S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy. Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện". C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy". C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói: J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn". C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô: J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng: J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha". C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần". C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này: S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy". C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?" C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo: J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?" C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép". C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết. Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng: S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày". C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói: S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?" C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người: S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?" C. Chúa Giêsu trả lời: J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây". C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói: S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?" C. Họ đáp lại: S. "Nó đáng chết!" C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng: S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?" C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói: S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa". C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng: S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?" C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét". C. Ông thề mà chối rằng: S. "Tôi không biết người ấy". C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi". C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng: S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính". C. Nhưng họ trả lời: S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!" C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói: S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu". C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi". Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?" C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng: S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?" C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng: S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy". C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ: S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?" C. Họ thưa: S. "Baraba!" C. Philatô hỏi: S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?" C. Họ đồng thanh đáp: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Quan lại hỏi: S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?" C. Chúng càng la to: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói: S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi". C. Toàn dân đáp: S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi". C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá. Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: S. "Tâu vua dân Do-thái!" C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói: S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!" C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: J. "Eli, Eli, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng: S. "Nó gọi tiên tri Elia". C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo: S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?" C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa". C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng: S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước". C. Philatô trả lời: S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý. C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ năm A 2023 Lời Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mt 26,14–27,66
1. Ông này là ai vậy?--‘Manna’ 3. Con đường Chúa đi--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 4. Tình yêu đáp lại hận thù--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 5. Bài giảng của ĐTC Benedictô 16--ĐTC Benedictô XVI 2008 6. Niềm vui, Thập giá, Giới trẻ--ĐTC Phanxicô 2013 7. Chọn Chúa Giêsu--GM Phaolô Bùi Văn Đọc 2005 8. Một Niềm Tín Trung 2020--TGM Giuse Vũ Văn Thiên 9. Đức Giêsu đối diện với cái chết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm 10. Chúa nhật Lễ Lá Mt 21,1-11—Lm Carôlô Hồ Bạc Xái 11. Thông cảm với Chúa--CN Lễ Lá A--Lm Giuse Đinh Lập Liễm 12. Bóng tối và niềm tin--Lm. GB. Trần Văn Hào 13. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty 14. Giờ chiến thắng vinh quang--Lm. Ignatiô Trần Ngà 15. Sự Thương Khó Đức Giêsu--Lm. Thái Nguyên 16. Thương khó--Lm. Giuse Trần Việt Hùng 17. Mầu nhiệm đau khổ--Lm Phêrô Nguyễn Hữu Duy 18. Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 19. Chúc Tụng Đấng Đến Nhân Danh Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu 20. Suy niệm Lễ Lá--'Niềm Vui Chia Sẻ' 21. Kinh nghiệm đau đớn của Phêrô--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest 22. Cành lá phản bội-Mt 26,14-27,66--‘Niềm Vui Chia Sẻ’--R. Veritas 23. Tin và không tin--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 24. Cô đơn--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 25. Con người tham sống sợ chết--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 26. Đau khổ và sự sống--Lm Bùi Quang Tuấn 27. Cùng theo Chúa--Lm. Nguyễn Nguyên 28. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa 29. Vào thành để chịu chết--Lm G. Nguyễn Cao Luật 30. Lắng nghe cuộc khổ nạn--André Sève 31. Tôi không bán Chúa--PM. Cao Huy Hoàng 32. Con đường Thập Giá--Lm Đam. Trần Quang Hiền 33. Chúa chịu tử nạn trong tôi--Lm. An Phong 34. Vào thánh Giêrusalem théo ý Chúa Cha--Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh 35. Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta--Phanxicô Xavie Trần Đức Tuân 36. Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa--Lm. Phạm Đức Trị 37. Suy niệm của Lm. Phêrô Võ Thanh Nhàn 38. Suy niệm về nhân tình thế thái--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 39. Tình yêu thanh khiết--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 40. Ba ngã rẽ--Lm Giuse Nguyễn Hữu An 41. Sức mạnh của Thánh Giá--Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng 42. Tin tưởng hay thất vọng--Lm Minh Nhiên 43. Con đường tình yêu--Lm Kiều Công Tùng 44. Hình ảnh người tôi tớ Chúa--Lm. Nguyễn Tiến Huân 46. Người tôi tớ khổ đau của Giavê--‘Suy Niệm Lời Chúa'--Radio Veritas Asia 47. Vẫn còn đó sự mâu thuẫn qua cuộc Thương Khó của Đức Giêsu--Jos. Vinc. Ngọc Biển 48. Từ thập giá tủi nhục đến Thánh Giá vinh quang!--Lm Nguyễn Hài Đồng 49. Cuộc Thương Khó Chúa Giêsu--Lm. Inhaxiô Hồ Thông 56. Người là Thiên Chúa – Mt 21,1-11 59. Đám đông dưới chân Thập Giá 60. Vui lòng vâng phục Thánh ý Chúa 61. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành 63. Lựa chọn – Mt 26, 14- 27. 66 64. Con Vua Đavít – Mt 26,14 - 27, 66 65. Vào thành Giêrusalem - Mt 26,14 - 27,66 66. Vua Người Nhân Ái – Mt 26,14 - 27,66 67. Lễ Lá trong đời thường - Mt 26,14 - 27,66 68. Người môn đệ bất chính - Mt 26,14 - 27,66 69. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô – Mt 26,14 - 27,66
1. Ông này là ai vậy?--‘Manna’Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh. Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít. Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá. Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ. Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời. Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì. Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều. Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó. Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống. Cần cảm nghiệm những đau đớn trên thân xác Chúa, nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái. Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết. Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa. Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn. Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn. Gợi Ý Chia Sẻ Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu? Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá? Cầu Nguyện Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa. Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con. Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa. Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
2. Chúc tụng Đức Vua--'Manna'Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người, Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi. Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết. Đức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ. Ngài vác thánh giá của họ, như họ và với họ. Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Đức Giêsu, chúng ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại. Đức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế, ngày nào còn một người anh chị em của Ngài khốn khổ. Đi đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay giúp ta nhậy cảm hơn với thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên toàn cầu. Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người. Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống. Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc. Tôi thấy mình có nét của Giuđa, một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần. Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe. Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối. Tôi thấy mình có nét giống Phêrô. Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh. Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc. Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi... Tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào. Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội. Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê, tò mò, háo hức, trông chờ Đức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh. Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước. Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng. Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu, các bà theo sau than khóc. Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ. "Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng": Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Đức Giêsu. Gợi Ý Chia Sẻ Pascal viết: "Đức Kitô còn hấp hối cho đến ngày tận thế." Bạn nghĩ gì về câu nói này? Bạn có cảm thấy cơn hấp hối của phần lớn nhân loại hôm nay không? Trong các nỗi đau của Đức Giêsu chịu khổ nạn, bạn thấy nỗi đau nào lớn nhất? Tại sao? Cầu Nguyện Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ. Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống. Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật. Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng. Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng. Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực. Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau. Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
3. Con đường Chúa đi--TGM. Giuse Ngô Quang KiệtBÀI THƯƠNG KHÓ: Mt 26,14 – 27,66 Lễ Lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêsusalem. Kết cục, Chúa Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con đường vinh quang vương giả. Nhưng con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội đồ. Đám rước tưng bừng ngày Lễ Lá gọi ta cùng tiến bước theo Chúa. Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình không kết thúc tại cổng thành Giêrusalem với đám đông ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm đường đi, nhưng kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những lời nhục mạ, với hai tội nhân đồng hành. Chúa Giêsu không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt nghênh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, đứng trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Danh hiệu là Vua chỉ được chính thức ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên thập giá. Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Đích điểm chỉ đạt tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ là nhà cửa, y phục mà cả những người thân, cả thành công, cả danh dự, cả mạng sống. Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người. Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay chân hoan hô Chúa, hôm sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa. Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, hôm sau cũng vẫn reo hò, nhưng để buộc tội Chúa. Cũng đám đống ấy, hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón Chúa, hôm sau đã xúm đông xúm đỏ để hành hạ Chúa. Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường Chúa đi, hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lên đầu Chúa. Tiến bước theo Chúa để dứt khoát lựa chọn cho mình một con đường. Đường vào Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người đều tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra muôn ngả. Mỗi người đi theo con đường của mình. Đường Giêrusalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than khóc, tiếng chửi rủa. Đường vào Giêrusalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thầy. Đường vào Giêrusalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ Chúa phải vác thánh giá. Đi theo Chúa trên đường vào Giêrusalem thì dễ dàng và vui vẻ. Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai. Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hoà nhập vào đoàn người cầm cành lá đón rước Chúa. Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào? Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi sẽ rẽ sang những con đường hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi sẽ phụ họa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường. Lạy Chúa, xin cho con luôn tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa đi. Xin thêm sức cho con để con kiên trì theo Chúa trên đường lên Núi Sọ. Amen. GỢI Ý CHIA SẺ 1) Hãy so sánh đường vào thành Giêrusalem và đường lên Núi Sọ. 2) Nếu bạn có mặt ở Giêrusalem hôm ấy bạn sẽ làm gì? 3) Bạn dám có lập trường riêng hay bạn chỉ biết làm theo đám đông? 4. Tình yêu đáp lại hận thù--TGM. Giuse Ngô Quang KiệtNgày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy. Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương. Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha. Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự. Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế. Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội. Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi. Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người. Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành. Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người. Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng. Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen. 5. Bài giảng của ĐTC Benedictô 16--ĐTC Benedictô XVI 2008Anh chị em thân mến, mỗi năm đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật Lễ Lá thuật lại cuộc tiến vào thành Giêrusalem của Chúa Giêsu. Cùng với các môn đệ của Người và một đám đông những người hành hương cứ mỗi lúc tăng theo, Người xuất phát từ đồng bằng miền Ga-li-lê về Thành Thánh. Các tác giả Tin Mừng đã thuật lại cho chúng ta ba tuyên bố của Chúa Giêsu liên quan đến Cuộc Khổ Nạn, như những bước tiến lên của Người, và qua đó cũng nói đến sự thăng tiến nội tâm mà Người đã thực hiện trong cuộc hành hương này. Chúa Giêsu tiến về đền thờ- về nơi mà Thiên Chúa, như sách Đệ Nhị Luật nói, đã chọn cho "danh Ngài ngự" (x. 12: 11; 14, 23). Thiên Chúa, Đấng tạo dựng trời đất, đã tự cho mình một tên gọi, đã tự làm cho mình được khẩn cầu; qủa thật, Người đã tự làm cho mình như được tiếp xúc với con người. Không chỗ nào có thể chứa nổi Người, nhưng chính vì lí do này mà Người đã tự cho mình một nơi chốn và một danh xưng để Người, là Thiên Chúa thật, được kính tôn như một Thiên Chúa bản vị ở giữa chúng ta. Chúng ta biết rõ từ bản tường thuật Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, Người đã yêu mến đền thờ như là nhà Cha của Người. Giờ đây Người lại thăm đền thờ này một lần nữa nhưng cuộc hành trình của Người vượt qua đền thờ ấy: đích điểm của những bước đi lên là Thánh Giá. Đó là cuộc đi lên đã được mô tả trong thư Do Thái như là cuộc tiến về căn lều không do người phàm dựng lên, nhưng do bởi Chúa, căn lều dẫn đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Cuộc đi lên cuối cùng để gặp Chúa đi qua Thánh Giá. Đó là cuộc đi lên hướng về "tình yêu cho đến cùng" (Ga 13, 1), là ngọn núi đích thật của Thiên Chúa, là nơi xác định cho sự tiếp xúc giữa Thiên Chúa và con người. Trong khi Người vào Giêrusalem, dân chúng tôn vinh Chúa Giêsu như là Con Vua Đavít, với những lời của những người hành hương trong Thánh vịnh 118: "Hoan hô Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!" (Mt 21, 9). Và rồi Người tiến vào đền thờ. Tuy nhiên ở đó, ở nơi đáng lẽ đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thì Người lại thấy những kẻ buôn bán súc vật và những người đổi tiền chiếm dụng nơi cầu nguyện này cho việc kinh doanh của họ. Chắc chắn những con vật để bán sẽ được thiêu đốt làm của lễ trong đền thơ; và cũng bởi vì ở trong đền thờ nên người ta không thể sử dụng những đồng tiền mang hình các hoàng đế Rôma, là những người chống lại Thiên Chúa đích thực, nên họ đã phải đổi những đồng tiền không mang hình ảnh ngẫu tượng. Tuy nhiên, tất cả những điều này đáng lẽ đã phải diễn ra ở một nơi khác: nơi đang xảy ra đây, theo mục đích đã được ấn định cho nó là lối vào các dân ngoại. Quả thật, Thiên Chúa của Israel đích thực là một Thiên Chúa của mọi dân tộc. Và mặc dù có thể nói các dân ngoại đã không tin vào Mặc Khải, nhưng họ vẫn có thể liên kết trong lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa qua cửa ngõ của niềm tin. Thiên Chúa Israel, vị Thiên Chúa của mọi dân tộc cũng luôn luôn chờ đợi lời cầu nguyện của họ, sự tìm kiếm của họ, lời khẩn nài của họ. Thay vào đó, việc buôn bán lại chiếm ưu thế - những việc trao đổi đã được hợp phép hoá bởi giới chức có thẩm quyền, mà chính nó đã lợi dụng từ việc kiếm chác của các những người buôn bán này. Những người buôn bán đã hành động một cách hợp pháp, tuân theo luật pháp hiện hành, nhưng chính luật pháp lại thối nát. "Sự tham lam...là ngẫu tượng", thư gửi tín hữu Cô-lô-xê nói thế (3, 5). Đây là ngẫu tượng mà Chúa Giêsu đến để công kích và Người trưng dẫn I-sai-a: "Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện" (Mt 21, 13; x. Is 56, 7), và Giê-rê-mi-a: "Nhưng các ngươi biến thành hang trộm cướp" (Mt 21, 13; x. Gr 7, 11). Chống lại mệnh lệnh được cắt nghĩa sai trái, Chúa Giêsu với hành động mang tính ngôn sứ, bảo vệ trật tự đích thực đã ghi trong Lề Luật và Các Tiên Tri. Hôm nay, tất cả những điều trên phải đem đến cho chúng ta là các Kitô hữu, lương thực để suy nghĩ. Đức tin của chúng ta có đủ tinh tuyền và mở rộng để thoát bỏ khỏi nó chất "dân ngoại"? Dân chúng hôm nay đang đi tìm kiếm và đặt ra những vấn nạn, họ có thể trực giác được ánh sáng của vị Thiên Chúa duy nhất, có thể kết hợp lại trong những nẻo đường niềm tin, với lời cầu nguyện của chúng ta và với những vấn nạn nêu ra đó, cũng có thể trở thành những người tôn thờ Thiên Chúa? Việc nhận thức rằng lòng tham là ngẫu tượng có đi vào tâm hồn chúng ta và đi vào việc thực hành đời sống của chúng ta không? Có lẽ chúng ta lại không để cho các ngẫu tượng, bằng cách này hay cách khác, len lỏi cả vào sinh hoạt đức tin của chúng ta? Chúng ta có sẵn sàng để cho mình không ngừng được Chúa thanh tẩy, và để cho Người xua đuổi khỏi chúng ta và Giáo Hội tất cả những gì trái nghịch với Người? Tuy nhiên trong việc thanh tẩy đền thờ, một vấn đề khác còn quan trọng hơn là việc chống lại những lạm dụng. Một thời gian mới trong lịch sử đã được báo trước. Điều Chúa Giêsu đã giảng giải cho người phụ nữ Samarianô liên quan đến câu hỏi của bà về sự thờ phượng đích thực, giờ đây đang bắt đầu: "Giờ đang đến, và lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, vì Chúa Cha tìm kiếm những người thờ phượng như thế" (Ga 4, 23). Giờ mà các con vật được sát tế cho Thiên Chúa đã chấm dứt. Hy tế bằng các con vật chỉ là một sự thay thế, một hành vi quá khứ tìm tòi con đường đích thực để thờ phượng Thiên Chúa. Thư gửi tín hữu Do thái nói về đời sống và công việc của Chúa Giêsu, đãả dụng một câu trong Thánh vịnh 40: "Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã chuẩn bị cho con một thân thể" (Dt 10, 5). Thân thể Chúa Kitô, là chính Chúa Kitô đến để thay thế các hy tế bằng máu và các lễ vật bằng lương phẩm. Chỉ có"tình yêu cho đến cùng", chỉ tình thương dành cho nhân loại được hiến trọn cho Thiên Chúa mới là sự thờ phượng đích thực, hy tế đích thực. Thờ phượng trong tinh thần và chân lý nghĩa là thờ phượng với Đấng là Sự Thật, thờ phượng hiệp thông với Thân Mình Người, trong đó Chúa Thánh Thần hợp nhất chúng ta. Các tác giả tin mừng thuật lại rằng những chứng gian đưa ra chống lại Chúa Giêsu đã qủa quyết Chúa nói: "Tôi có thể phá huỷ đền thờ Thiên Chúa, và sẽ xây dựng lại trong ba ngày" (Mt 26, 11). Đứng trước Chúa Kitô đang bị treo trên thập giá, một số kẻ thách thức Người cũng nhắc đến những lời đó: "Mi là kẻ có thể phá huỷ đền thờ và xây dựng lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi!" (Mt 27, 40). Bản văn chính xác về những lời Chúa Giêsu nói đã được thánh Gioan truyền lại cho chúng ta trong trình thuật về việc thanh tẩy đền thờ. Đáp lại đòi hỏi bằng một dấu chỉ để Chúa Giêsu có thể biện minh cho một hành động như thế, Người đáp lại: "Hãy phá huỷ đền thờ này đi, và trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại" (Ga 2, 18 tt). Thánh Gioan thêm rằng khi suy nghĩ lại biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu rằng Chúa Giêsu đã ám chỉ Đền Thờ là Thân Mình của Người (x. 2, 21 tt). Không phải Chúa Giêsu phá huỷ đền thờ; nó bị để cho tàn phá bởi thái độ của những người biến nó, từ một nơi để gặp gỡ giữa các dân tộc với Thiên Chúa thành một "hang trộm cướp", một nơi buôn bán. Vẫn luôn như vậy, bắt đầu với sự sa ngã của A-đam, sự sa ngã của nhân loại trở thành một cơ hội cho chúng ta phó thác hơn vào tình yêu Thiên Chúa. Giờ của đền thờ được xây bằng đá, giờ hiến tế các súc vật giờ đây đã qua đi: sự việc Chúa đuổi những người buôn không chỉ loại bỏ được sự lạm dụng mà còn hướng tới Thiên Chúa một cách thức thờ phượng mới: đền thờ mới được hoàn thành: chính Chúa Giêsu Kitô, nơi Người tình yêu của Thiên Chúa đổ tràn trên nhân loại. Bằng sự sống của Người, Người là đền thờ mới và sống động. Người đã đi qua Thánh Giá và đã phục sinh là không gian sống động cho tinh thần và sự sống nơi đó hình thái thờ phượng đích thực được thực hiện. Như thế, việc thanh tẩy đền thờ, như đỉnh cao của cuộc tiến vào thành Giêrusalem của Chúa Giêsu cũng đồng thời là một dấu chỉ về sự tiêu vong tiềm ẩn một công trình và lời hứa về Đền Thờ mới, một lời hứa về vương quốc của sự hoà giải và tình yêu mà khi hiệp thông với Chúa Kitô sẽ được thiết lập vượt qua mọi biên giới. Thánh Mát-thêu mà Tin Mừng chúng ta sẽ nghe trong năm nay, đề cập vào cuối bản trình thuật về Chúa Nhật Lễ Lá, sau việc thanh tẩy đền thờ hai chi tiết nhỏ khác mà một lần nữa lại mang một đặc tính tiên tri và đồng thời soi sáng cho chúng ta biết ý định thực sự của Chúa Giêsu. Ngay sau những lời của Chúa Giêsu về ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, tác giả Tin Mừng tiếp tục: "Có những kẻ mù loà và què quặt đến với Người trong đền thờ, và Người đã chữa họ lành". Thêm nữa, Mát-thêu còn nói với chúng ta rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương tại các cổng thành: "Hoan hô Con Vua Đavít" (Mt 21, 14 tt). Chúa Giêsu xua trừ việc mua bán thú vật và đổi tiền bằng thiện tâm chữa lành. Đây là việc thanh tẩy đền thờ đích thực. Người không đến như là một kẻ phá hoại, Người không đến với lưỡi gươm của một kẻ làm cách mạng. Người đến với ân huệ chữa lành. Người hiến thân cho những ai vì những đau đớn bệnh tật phải lê lết cho đến hết cuộc đời, và cho những ai bị gạt ra ngoài lề xã hội. Chúa Giêsu tỏ bày Thiên Chúa như là một Đấng yêu thương, và quyền năng của Người như là quyền năng tình yêu. Như thế, Người dạy chúng ta điều luôn luôn đúng về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Và lại có nhiều trẻ em tung hô Chúa Giêsu là con Vua Đavít và reo hò chúc tụng Người. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người rằng để vào Nước Thiên Chúa điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Người, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ chúng ta, lôi kéo chúng ta về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ sự kiêu hãnh làm chúng ta choá mắt, nó muốn lôi kéo chúng ta khỏi Thiên Chúa như thể Thiên Chúa là đối thủ của chúng ta. Để gặp Thiên Chúa cần phải có thể nhìn bằng con tim. Chúng ta phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ, với một tâm hồn tươi trẻ không bị che khuất bởi những thành kiến hoặc bị đui mù vì những lợi lộc. Như thế, chính trong những người bé mọn, những người có được tâm hồn tự do và rộng mở để nhận biết Chúa Giêsu, mà Giáo Hội nhận ra hình ảnh của mình, hình ảnh của những người tin thuộc mọi thời đại. Các bạn thân mến, giờ phút này chúng ta hãy kết nhập vào đoàn rước của những người trẻ thời đó - một cuộc rước lượn vòng đi qua toàn bộ lịch sử. Cùng với các bạn trẻ trên toàn thế giới chúng ta hãy đi đến gặp Chúa Giêsu. Chúng ta hãy tự để cho mình được Người hướng dẫn để đến với Thiên Chúa, để học hỏi từ chính Thiên Chúa con đường đích thật để là con người. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa cùng với Người, bởi vì nhờ Chúa Giêsu con Vua Đavít, Người đã ban cho chúng ta một không gian bình an và sự hoà giải ôm trọn lấy thế giới với Bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy cầu nguyện với Người, để chính chúng ta cũng trở nên cùng với Người và bắt đầu từ Người, những sứ giả xây dựng hoà bình, những người thờ phượng trong tinh thần và sự thật, để nước Người được tăng triển trong chúng ta và chung quanh chúng ta. Amen.
6. Niềm vui, Thập giá, Giới trẻ--ĐTC Phanxicô 2013(Ngày lễ giới trẻ - Chúa Nhật Lễ Lá 2013, Quảng trường thánh Phêrô, Vatican). (Fx. Đình Phước SDB dịch từ www.vatican.va) 1. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Đám đông các môn đệ tháp tùng Ngài trong hân hoan, họ trải áo choàng trước Ngài. Người ta nói về những việc lạ lùng Ngài đã thực hiện, một tiếng kêu ngợi khen vang lên: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa đang ngự đến, Ngài là vua. Bình an trên trời và vinh danh trên các tầng trời" (Lc 19, 38). Đám đông, hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, bình an: đó là một bầu không khí vui mừng mà con người ta cảm nghiệm. Chúa Giêsu đã thức tỉnh trong tâm hồn những con người đang kỳ vọng nhất giữa những con người khiêm hạ, đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trước mặt mọi người. Ngài đã biết cảm thông với những lầm than của con người, Ngài đã tỏ lộ khuôn mặt đầy lòng thương xót của Thiên Chúa và đã cúi mình chữa lành xác hồn. Đó là Chúa Giêsu. Đó là con tim của Ngài nhìn đến tất cả chúng ta, nhìn đến những bệnh tật và tội lỗi của chúng ta. Đó là tình yêu thương vô bờ bến của Chúa Giêsu. Và thế là Ngài vào thành Giêrusalem với tình yêu thương ấy, và nhìn tất cả chúng ta. Đó là một cảnh tượng thật đẹp: đầy ánh sáng, ánh sáng tình thương của Chúa Giêsu, của trái tim Ngài, đầy vui mừng và hân hoan như ngày lễ hội. Khởi đầu thánh lễ, chúng ta cũng lập lại điều đó. Chúng ta vẫy các cành lá. Tất cả chúng ta cũng đón tiếp Chúa Giêsu: bày tỏ niềm vui được tháp tùng Ngài, biết Ngài gần kề, hiện diện trong chúng ta và giữa chúng ta, như một người bạn, một người anh, và cũng như một vị vua, nghĩa là như ngọn đèn chiếu sáng đời sống chúng ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã hạ mình đồng hành với chúng ta: là người bạn và là người anh em với chúng ta. Ngài soi sáng cho hành trình của chúng ta, và chúng ta đã đón nhận Ngài. Và đó là lời đầu tiên mà tôi muốn nói với anh chị em: niềm vui! Anh chị em đừng bao giờ là những người nam nữ buồn sầu: một Kitô hữu không bao giờ có thể như vậy! Anh chị em đừng bao giờ để cho nản chí thất vọng chiếm đoạt! Niềm vui của chúng ta không phải là niềm vui phát sinh từ sự sở hữu bao nhiêu của cải, nhưng nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu: Ngài đang ở giữ chúng ta; phát sinh từ sự biết rằng với Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ lẻ loi ngay cả trong những lúc khó khăn, ngay cả khi đường đời chúng ta gặp phải những vấn nạn và chướng ngại có vẻ không thể vượt qua nổi, và trong cuộc đời chúng ta có rất nhiều những khó khăn và chướng ngại như thế! Trong những khó khăn đó, kẻ thù đến, ma quỉ đến, bao nhiêu lần nó đội lốt thiên thần, tinh quái nói với chúng ta những lời đường mật. Anh chị em đừng nghe nó! Chúng ta hãy theo Chúa Giêsu! Chúng ta tháp tùng Ngài, nhưng nhất là chúng ta biết rằng Ngài đồng hành với chúng ta và vác chúng ta lên vai: đây chính là niềm vui của chúng ta, niềm hy vọng mà chúng ta phải mang vào thế giới này. Và xin anh chị em đừng để ai lấy mất niềm hy vọng! Đừng để niềm hy vọng bị đánh cắp! Niềm hy vọng mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta. 2. Tại sao Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, hay đúng hơn: Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như thế nào? Đám đông dân chúng hoan hô Ngài như vị Vua. Và Ngài không chống lại, không bảo họ im đi (x. Lc 19,39-40). Nhưng Chúa Giêsu là loại Vua nào? Chúng ta hãy nhìn Ngài: Ngài cưỡi một con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực. Những kẻ đón tiếp Ngài là những người dân khiêm hạ, đơn sơ, những người có cảm thức nhìn thấy nơi Chúa Giêsu một cái gì hơn nữa; với cảm thức đức tin, họ thấy rằng: Vị này là Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Ngài vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã báo trước trong Bài đọc I (x. Is 50,6); Ngài vào thành để chịu mão gai, một cái gậy, một áo choàng đỏ, vương quyền của Ngài là đối tượng cho sự nhạo cười; Ngài vào thành để bước lên đồi Canvê. Và đây lời thứ hai: Thập Giá. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập Giá. Và chính tại đó, bản chất "vua" của Ngài theo Thiên Chúa chiếu tỏa rạng ngời: Ngai vàng của Ngài là cây gỗ Thập Giá! Cha nghĩ đến điều ĐTC Biển Đức XVI đã nói với các Hồng Y: Anh em là những hoàng thân, nhưng là hoàng thân của một vị Vua chịu đóng đinh. Thập giá là ngai vàng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mang lấy Thập Giá trên mình. Nhưng tại sao lại Thập Giá? Tại sao? Chúa Giêsu vác lấy trên mình sự ác, sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế, cả tội lỗi của chúng ta nữa, và Ngài tẩy rửa, thanh tẩy bằng máu của Ngài, với lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn xung quanh: bao nhiêu vết thương mà sự ác gây ra cho nhân loại! Chiến tranh, bạo lực, xung đột kinh tế gây thiệt hại cho kẻ yếu thế nhất, sự khao khát tiền bạc, mà rồi không ai có thể mang theo với mình, phải để lại nó. Bà nội của cha thường nói với những đứa trẻ như cha khi còn nhỏ rằng: khăn liệm xác không có túi. Lòng yêu mến tiền bạc, quyền hành, tham nhũng, chia rẽ, những tội ác chống lại sự sống con người và chống lại công trình sáng tạo! Và những tội lỗi của mỗi người chúng ta, chúng ta đều ý thức: những thiếu sót trong việc yêu mến và kính trọng Thiên Chúa, thiếu sót trong tương quan đối với tha nhân, và với toàn thể công trình tạo dựng. Chúa Giêsu trên thập giá cảm thấy tất cả gánh nặng của sự ác. Với sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, Ngài chiến thắng chúng, đánh bại chúng trong cuộc phục sinh của Ngài. Đó chính là điều tốt lành mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta trên 'ngôi báu' của Ngài là thập giá. Thập giá Chúa Kitô được đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ, và làm một túi nhỏ, túi mà ngài đã làm trong ngày Ngài chịu chết. 3. Hôm nay tại Quảng trường này có biết bao là người trẻ: từ 28 năm nay, Chúa Nhật Lễ Lá là Ngày Quốc tế giới trẻ! Và đây là lời thứ ba: người trẻ! Các bạn trẻ thân mến, cha đã nhìn thấy các con trong cuộc rước, khi các con đi vào; cha tưởng tượng ra các con đang vui mừng quanh Chúa Giêsu, vẫy những cành ôliu: cha mường tượng các con hô tên Chúa và biểu lộ niềm vui được ở với Chúa! Các con có một phần quan trọng trong đại lễ đức tin! Các con mang cho chúng tôi niềm vui đức tin và nói với chúng tôi rằng chúng ta phải sống đức tin với một tâm hồn tươi trẻ, luôn luôn với một tâm hồn tươi trẻ, ngay cả khi chúng ta 70, 80 tuổi! Trái tim trẻ trung! Với Chúa Kitô, trái tim không bao giờ già nua! Nhưng tất cả chúng ta biết điều đó và các con biết rõ rằng Vị Vua mà chúng ta đi theo và vị Vua đồng hành với chúng ta là Vị rất đặc biệt: Ngài là vị Vua yêu thương đến độ chấp nhận Thập Giá và Ngài dạy chúng ta phục vụ, yêu thương. Và các con không xấu hổ vì Thập Giá của Chúa! Trái lại, các con hãy ôm lấy Thập Giá, vì các con hiểu rằng chính trong sự hiến thân, chính trong sự ra khỏi chính mình, mà chúng ta đạt đến niềm vui đích thực và chính nhờ tình thương mà Thiên Chúa chiến thắng sự ác. Các con mang Thập Giá lữ hành qua mọi lục địa, qua những nẻo đường của thế giới! Hãy mang Thập Giá đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Các con hãy đi và làm cho mọi dân nước thành môn đệ" (Xc Mt 28,19), như chủ đề của Ngày Quốc Tế giới trẻ năm nay. Các con hãy mang Thập giá để nói với tất cả mọi người rằng trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã phá đổ bức tường thù hận, phân cách con người và các dân tộc, và đã mang sự hòa giải và an bình. Các con thân mến, cả cha nữa, cha cũng lên đường với các bạn, từ hôm nay, theo vết của chân phước Gioan Phaolô II và ĐTC Biển Đức XVI. Chúng ta đang ở gần giai đoạn cuối cùng của cuộc đại lữ hành của Thập Giá. Cha vui mừng nhìn về tháng bảy sắp tới, tại Rio de Janeiro! Cha hẹn các con tại thành phố lớn ấy ở Brazil! Các con hãy chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của các con, để cuộc gặp gỡ ấy là một dấu chỉ đức tin cho toàn thế giới. Các con phải nói với thế giới: bước theo Chúa Giêsu thật là điều tốt đẹp; thật là tốt lành khi đồng hành với Chúa Giêsu; sứ điệp của Chúa Giêsu thật là tốt đẹp; thật là tốt khi ra khỏi chính mình, đi tới các khu ngoại ô của thế giới và của cuộc sống để rao truyền Chúa Giêsu! Có ba lời là: niềm vui, thập giá, và giới trẻ. Chúng ta hãy nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Xin Mẹ giúp chúng ta tìm gặp niềm vui trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, tìm gặp tình yêu dưới chân thập tự, tìm gặp sự nhiệt tâm của tâm hồn tươi trẻ, để chúng ta bước theo Ngài trong Tuần Thánh này và trong suốt cuộc đời của chúng ta. Amen.
7. Chọn Chúa Giêsu--GM Phaolô Bùi Văn Đọc 2005Cha phải nói với chúng con những gì trong thánh lễ chiều nay? Cha đã cầu nguyện rất nhiều, và Chúa đã dạy cha. Chiều nay, cha mời gọi chúng con cùng với cha, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện điều quan trọng nhất đối với cuộc sống kitô hữu của chúng ta: hãy chọn Chúa Giêsu giữa nhiều đối tượng, dù Chúa Giêsu chịu đóng đinh, dù Người chịu treo trên thập giá, Người bị bỏ rơi, dù Người bị sỉ nhục, và bị giết chết... Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị sỉ nhục ngày hôm nay; Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị bôi tro trét trấu trên gương mặt đẫm máu của Người. Chúa Giêsu vẫn không ngừng bị bôi nhọ cho đến ngày tận thế, bấy giờ không ai có thể bôi nhọ Người nữa, vì Người trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Chúng ta chọn lựa Chúa Giêsu, dù có những tiếng kêu mời khác: tiếng kêu mời của hưởng thụ và tiện nghi, của lợi nhuận và tiền bạc, tiếng mời gọi của danh vọng và địa vị, của các loại tình cảm và đam mê. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt các con để các con đi và sinh nhiều hoa trái và hoa trái các con tồn tại (Ga 15, 16). Khi nói như thế, Chúa Giêsu cố ý dạy chúng ta rằng: chính tình yêu của Người đi bước trước: Chúa Giệsu yêu chúng ta trước, chứ không phải chúng ta yêu Người trước. Như lời kinh Tin Kính: vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta. Người đã chết vì tội lỗi chúng ta như lời Kinh Thánh và như lời thánh Phaolô, Người đã sống lại cho chúng ta được nên công chính, được cứu độ, được chia sẻ Thần Khí Phục Sinh của Người, thông phần sự sống thần linh của Người... Khi nói với các môn đệ không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu không cố ý nói rằng các con đừng chọn Thầy, đừng theo Thầy. Trái lại Người luôn mời gọi hãy theo Thầy, hãy từ bỏ mọi sự vác thập giá mà theo Thầy. Và đã có biết bao nhiêu người trẻ bỏ mọi sự mà theo Người. Đứng trước những khó khăn, Chúa Giêsu còn cho thấy rõ ràng là phải chọn lựa, như trường hợp có nhiều người bỏ Chúa Giêsu, nhiều môn đệ nói với Người: lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi? Bấy giờ Chúa Giêsu đã hỏi nhóm 12: các con cũng muốn bỏ đi hay sao? Và ông Simon Phêrô đã nhanh nhẩu đáp thay cho nhóm 12: thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Chỉ có Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6, 67-69). Các con sẽ nói với Chúa Giêsu như thánh Phêrô: Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con theo ai? Chỉ theo Thầy, chúng con mới có những lời ban sự sống đời đời. Các con chọn Chúa Giêsu; Các con có biết rằng chọn Chúa là chọn lời của Người, chọn Tin Mừng của Người không? Lời của Người vẫn còn chướng tai đối với nhiều người hôm nay. Giáo huấn của Người, dù rất tiến bộ vẫn bị coi là bảo thủ đó! Muốn vâng nghe lời Người, đôi lúc các con phải lội ngược dòng sông! Theo bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, đám đông người Do Thái đã bị xúi giục chọn lựa Barraba, và họ đã chọn ông. Còn Chúa Giêsu, thì họ để cho bị lôi đi đánh đòn, và giết chết. Các con có dám nói ngược lại với đám đông không? Các con có dám chọn Chúa Giêsu, khi nhiều mãnh lực thế gian tìm cách loại bỏ Người? Các con có sợ mình lỗi thời khi chọn Chúa Giêsu không? Có nhiều người, vì sợ lỗi thời mà đã bỏ Chúa. Nhưng tất cả những ai đã bỏ Chúa rồi sẽ thất vọng, vì thế gian này qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại. Chỉ có Chúa mới là Tương Lai đích thực của loài người.
8. Một Niềm Tín Trung 2020--TGM Giuse Vũ Văn ThiênCùng với tất cả các Kitô hữu trên toàn thế giới, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Ngày lễ này được gọi là “Lễ Lá” bởi sự kiện dân chúng cầm ngành lá thiên tuế đi đón Chúa Giêsu khi Người long trọng tiến vào thành Giêrusalem. Thánh lễ khởi đầu với bầu không khí hân hoan tưng bừng và kết thúc trong trầm buồn lặng lẽ, với lời mời gọi các tín hữu tiếp tục suy tư mầu nhiệm thương khó, cũng như và ý nghĩa của thập giá sẽ được tôn vinh trong phụng vụ Tuần Thánh. Bài Thương khó theo Tin Mừng thánh Mátthêu khởi đầu bằng sự phản bội của Giuđa, một trong mười hai tông đồ. Giuđa đã được Chúa gọi, nuôi dưỡng và dạy dỗ. Vì tham tiền bạc mà ông đã phản bội Thày mình. Không chỉ có Giuđa, chúng ta còn thấy một số kỳ lão, người biệt phái, luật sĩ và đám đông dân chúng cũng đua nhau tố cáo Chúa. “Hội chứng đám đông” đã khiến những người này hăng hái và liên kết lại với nhau để vu khống cho Chúa đủ điều. Các môn đệ hằng ngày thân thiết và hăng hái với Thày, lúc này xem ra cũng yếu đuối, run sợ, thậm chí còn chối Thày như trường hợp Phêrô. Đối lại với những môn đệ sợ hãi chạy trốn, với một Giuđa phản bội và với một đám đông dân chúng đang bừng bừng căm giận, Chúa Giêsu vẫn khiêm tốn và trung thành. Người chấp nhận đi cho đến cùng chặng đường của sứ mạng Thiên sai. Người không dùng bạo lực để đối lại với bạo lực. Cuộc xét xử bất công của Công nghị Do Thái đã lên án người vô tội. Chúa Giêsu đã chết trên thập giá để đền thay cho tội lỗi loài người. Người đã đau khổ cho con người hạnh phúc, đã chết cho con người được sống. Mặc cho cơn sóng tội lỗi dồn dập, trước cơn cuồng phong của bạo lực, Chúa Giêsu vẫn yêu mến nhân loại và yêu cho đến cùng, như tác giả Tin Mừng thứ Bốn khẳng định với chúng ta. Trong mọi hoàn cảnh, Chúa Giêsu vẫn hướng về con người, kể cả khi chịu treo trên thập giá, với cái nhìn yêu thương. Cái nhìn yêu thương này hướng đến mỗi người và từng người. Cái nhìn đó mời gọi mọi người sống cho tình yêu và vì tình yêu. Đó chính là thông điệp Đấng chịu treo trên thập giá muốn gửi cho chúng ta. Qua cuộc thương khó đón nhận một cách tự nguyện, Chúa Giêsu đã đập tan quyền lực của sự chết đang tiềm ẩn nơi con người, tức là quyền lực của tội lỗi. Tội lỗi đã làm cho những người biệt phái và luật sĩ trở thành những người hằn học thù hận, đã làm cho Philatô hèn nhát trốn tránh trách nhiệm, đã khiến các môn đệ mê ngủ và chạy trốn và sau hết đã làm cho Phêrô nhát đảm chối Thày. “Quả thật, người này là con Thiên Chúa!”. Chúng ta thấy ở đây một điều trớ trêu: trong khi những người thường xuyên ở gần Chúa Giêsu, được Người giáo huấn và dạy bảo, thì tìm cách chạy trốn và phủ nhận mối tương quan với Người, thì một vị quan chức của đế quốc Rôma lại tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Vị quan chức này là một người ăn lương nhà nước, một người vô thần chẳng có liên quan gì đến vụ án Giêsu. Ông chỉ là người thi hành công vụ. Cái chết của một người vô tội và thánh thiện đã khẳng định với ông: Người này không phải là một tử tội bình thường như những tử tội khác. Hai bài đọc (Bài đọc I và bài đọc II) đều nhắc đến hình ảnh người Tôi tớ Trung thành trong đau khổ. Giáo Hội Kitô đã nhận ra Người Tôi tớ đau khổ mà ngôn sứ Isaia tiên báo nơi Đức Giêsu Kitô. Người đã mang trên thân mình những đau khổ của cả nhân loại mà không than van (Bài đọc I). Người đã “hủy mình ra không” để trở nên thân phận tôi đòi (Bài đọc II). Đức Giêsu chấp nhận tất cả những điều đó, vì vâng lời Chúa Cha và vì yêu thương nhân loại. Người cũng làm gương cho chúng ta, để rồi, trong cuộc sống còn nhiều gian nan thử thách này, chúng ta biết vác thập giá đời mình và vác thập giá cho nhau. Hai mươi thế kỷ sau cái chết của Đức Giêsu, Giáo Hội Kitô vẫn không ngừng tôn vinh cây thập giá, như cờ hiệu chiến thắng và như biểu tượng tình yêu. Khi tham dự phụng vụ hôm nay, mỗi người được mời gọi suy tư về thái độ sống của mình. Nghi thức làm phép lá và kiệu lá nhắc chúng ta, cuộc thương khó của Chúa vẫn đang diễn ra nơi những người đau khổ, nghèo hèn, bệnh tật, bị áp bức và thiệt thòi bất công trong xã hội hôm nay. Chúa đang đi qua cuộc đời này. Có những người đón tiếp Chúa, nhưng cũng có những người dửng dưng trước việc Chúa đi ngang qua cuộc đời họ, thậm chí có những người từ chối Chúa và gạt Người ra bên lề cuộc sống. Tiếng gọi của Chúa là tiếng gọi khiêm tốn, đôi khi bị lấn át bởi biết bao âm thanh hỗn tạp của “biển đời” đầy bon chen và giành giật. Vì thế, để lắng nghe lời của Người, chúng ta phải trút bớt khỏi tâm hồn những toan tính, tham vọng. Chúa thường tâm sự với những ai biết chuyên tâm cầu nguyện và những tâm hồn thích sống trong lắng đọng nội tâm. Ngày lễ Lá giúp chúng ta tự vấn lương tâm: chúng ta đón Chúa với tâm tình nào? Phải chăng là dửng dưng như một số người dân thành Giêrusalem năm xưa? Hoặc như một số người nhiệt thành tung hô Chúa, nhưng rồi sau đó thay lòng đổi dạ, giơ tay tố cáo Chúa và xin Philatô đóng đinh Người trên thập giá? Lời Chúa hôm nay vừa nêu cao hình ảnh Đức Giêsu như một tôi tớ tín trung của Thiên Chúa, vừa mời gọi chúng ta hãy noi gương Người, trung thành và kiên vững trong đời sống đức tin. Mùa Chay và Tuần Thánh năm nay, chúng ta trải nghiệm những tâm trạng đặc biệt. Đó là nỗi hoang mang, sự sợ hãi do bệnh viêm phổi Vũ Hán, còn gọi là COVID-19. Giữa cơn sợ hãi này, nhiều người đặt câu hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Đây cũng là câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con?” Khi Người chịu treo trên thập giá, những người biệt phái thách thức Chúa: “Nếu ông là con Thiên Chúa, ông hãy bước xuống khỏi thập giá đi!”. Chúa Giêsu không chấp nhận lời thách thức ấy. Người không bước xuống khỏi thập giá. Người đã vui lòng chấp nhận để vâng ý Chúa Cha và để đem lại ơn cứu độ cho con người. Như đã nói ở trên, chính lúc Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, lại là lúc người sĩ quan Rôma tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Trở lại với câu hỏi con người thời nay thường đặt ra: Thiên Chúa ở đâu giữa những đau khổ của con người? Một nhà thần học đã trả lời: Thiên Chúa đang ở đây, bên cạnh chúng ta, nơi những gương mặt đau khổ, để cùng đau khổ với họ và ban ơn nâng đỡ cũng như lau khô giọt lệ nơi khóe mắt họ. Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta và trở nên “nạn nhân” với chúng ta. Nhờ sự hiện diện của Ngài, mà chúng ta có một cái nhìn mới về nhân sinh, về đau khổ và về tình liên đới. Về nhân sinh: chúng ta cảm nhận sự mỏng giòn mong manh của kiếp người. Về đau khổ: chúng ta thấy đây là lửa thử vàng. Về tình liên đới: hơn bao giờ hết, chúng ta thấy cần có trách nhiệm với xã hội, với công ích, với cộng đoàn. Trong cuộc sống, một loại hình dịch bệnh còn nguy hiểm hơn cả COVID-19, đó là tội lỗi. Bởi lẽ nó cắt đứt mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Nếu COVID-19 giết hại thể xác, thì tội lỗi giết chết phần linh hồn. Nếu COVID-19 làm cho con người xa lánh nhau, thì tội lỗi lại làm cho người trở thành kẻ thù của nhau. Qua đại dịch COVID-19, chúng ta đi sâu hơn vào mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm đau khổ, với niềm xác tín: thập giá là đau khổ nhưng cũng là vinh quang. Những ai cùng chịu chết với Chúa Kitô sẽ được cùng sống lại với Người. Thập giá không chỉ là câu chuyện của xa xưa, nhưng là câu chuyện của hiện tại. Quả vậy, thập giá vẫn hiện hữu trong gia đình, qua những mâu thuẫn bất hòa, nơi cuộc sống xã hội, nơi những bạo lực tranh chấp; nơi những mâu thuẫn huynh đệ tương tàn do sự bất bao dung. Thập giá vẫn còn đó qua những bế tắc của cuộc sống. Nhờ ơn trợ giúp của Thiên Chúa, với thiện chí và nỗ lực cố gắng của con người, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn. Một tác giả đã viết: Đức Giêsu đến trần gian không phải để hủy bỏ thập giá, nhưng Người đã vác thập giá lên đồi Canvê. Đức Giêsu không đến trần gian để cất thập giá khỏi đôi vai của con người, nhưng Người cùng họ bước đi trong hành trình cuộc đời. Qua đó, Người khẳng định với chúng ta: từ nay, con người không còn phải vác thập giá đơn lẻ trên đường đời, mà có Chúa Giêsu cùng vác với họ. Đừng nghĩ rằng Thiên Chúa tạo ra thập giá để bắt con người phải vác. Không! Thiên Chúa không tạo ra thập giá. Chính con người đã đặt cây gỗ lên vai Con Thiên Chúa rồi bắt Người vác đi. Khi Người đã kiệt sức thì họ mới cho người khác vác đỡ. Đau khổ trong cuộc sống là do con người không ngừng gây ra cho nhau và bắt nhau phải chịu đựng. Con cái gây đau khổ cho cha mẹ. Vợ chồng gây phiền toái cho nhau. Hàng xóm láng giềng gây mâu thuẫn tranh chấp… đó là những thập giá của đời thường. Nếu mỗi người biết góp phần giảm thiểu những mâu thuẫn bất hòa, sống quan tâm đến nhau và quan tâm đến công ích, thì cuộc sống này sẽ bớt đi thập giá, thay thế vào đó là sự an bình. Sau khi tham dự Lễ Lá, chúng ta sẽ mang theo một vài cành lá đã được làm phép về nhà. Cành lá này nhắc lại điều chúng ta đã hát: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Cành lá này cũng nhắc chúng ta về lòng trung thành với Chúa trong đời sống. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu là sống và làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Người muốn chúng ta hãy là chứng nhân loan báo sự chết và phục sinh của Người cho đến tận cùng thế giới. Người muốn mỗi chúng ta cũng biết hy sinh cho nhau, để cuộc sống này trở nên nhân ái và công bình hơn. Người còn muốn chúng ta hãy tiếp nối sứ mạng của Người xây dựng Nước Trời, một công trình được thực hiện ngay ở đời này và sẽ hoàn thành khi Người lại đến trong vinh quang. Trong suốt Tuần Thánh này, chúng ta hãy liên kết mật thiết với Chúa trong lời cầu nguyện. Mỗi khi cử hành Hy lễ Tạ ơn, chúng ta được đón nhận những hoa trái của cuộc thương khó Đức Giêsu. Người ban cho chúng ta không chỉ mình và máu Người, mà còn sự kết hợp mật thiết với Chúa Cha. Người đã khởi đầu nơi chúng ta một cuộc sống quảng đại và sự liên kết tiến tới sự thân tình trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha của Người.
9. Đức Giêsu đối diện với cái chết--Lm. Giuse Phạm Thanh LiêmChúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức Giêsu vào thành Yêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Giêsu vào thành Yêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào những ngày cuối cùng của đời Ngài. Thành công và thất bại trên đời Sau ba mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở Nazarét, Ngài đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất nước Do Thái với những thành công và thất bại. Hôm nay Ngài trở lại Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của người Do Thái mà mọi người trưởng thành thường phải lên Yêrusalem. Cha mẹ Đức Giêsu cũng vẫn lên Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm 12 tuổi cũng đã được dạy và thực tập hằng năm. “Hôm nay Ngài có lên Yêrusalem không?” Một số người am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức Giêsu: nếu Ngài lên Yêrusalem Ngài có thể bị những người lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ mới đặt câu hỏi! Trên đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 đã nói: “không thành công cũng thành nhân”. Vấn đề chính là thái độ hay cách cư xử của mình thế nào đối diện với những thành công và thất bại trên đời. Đức Giêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Yêrusalem dịp này, dù rằng đây là luật buộc người Do Thái. Thomas khi thấy Ngài quyết định lên Yêrusalem thì nói: “Chúng ta cùng lên Yêrusalem để cùng chết với Ngài” (Ga.11, 8.16). Cổ ngữ có câu: “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Tại sao Đức Giêsu không “khôn” một chút? Đức Giêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh, Ngài chấp nhận thân phận làm người trong mọi trường hợp, chẳng hạn Ngài nói với Phêrô dịp người ta tới bắt Ngài: “xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy không thể xin Cha cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao, nhưng như vậy thì làm sao Kinh Thánh được nên trọn?” (Mt.26, 53). Đức Giêsu đã không biến đá thành bánh để ăn, Ngài cũng không xuống khỏi thập giá khi bị thách thức, vì Ngài chấp nhận “thân phận con người” đến cùng trong mọi trường hợp. Tôi có sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong cuộc sống thường ngày không? Dâng hiến chính mình Đức Giêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động. Vì tình yêu “đối với con người”, nên Ngài đã có một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến chính mình cho tất cả mọi người qua bí tích Thánh Thể. Hành vi tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những điều tốt lành cho người mình yêu. Yêu như Đức Giêsu yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống. “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự dữ bất lực trước tình yêu. Phục vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận xem “ai là người lớn nhất trong họ” nếu thầy không còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và bất hoà. Đức Giêsu dạy các tông đồ: “ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ”. Đức Giêsu đã đến như một người tôi tớ. Môn đệ của Ngài cũng được mời gọi nên giống Ngài.
10. Chúa nhật Lễ Lá Mt 21,1-11—Lm Carôlô Hồ Bạc XáiA. Hạt giống... Bài Tin Mừng tường thuật việc Chúa Giêsu chuẩn bị vào thành Giêrusalem và cuộc đón rước Ngài vào thành: - Về việc chuẩn bị: chính Chúa Giêsu chỉ dẫn mọi chi tiết cho các môn đệ, bởi vì cuộc vào thành có ý nghĩa rất quan trọng nên Ngài phải đích thân thu xếp. Việc chuẩn bị được thực hiện trong vòng bí mật, vì khi đó bầu khí rất nguy hiển, những lãnh tụ do thái đang tìm bắt Ngài. - Chúa Giêsu cỡi lừa tiến vào thành để cho thấy Ngài chính là Vua Messia. Nhưng Ngài không cởi ngực mà cởi lừa để cho thấy Ngài không phải là một vị vua chiến tranh nhưng là một vị vua hòa bình. B.... nẩy mầm. 1. Tất cả mọi việc làm của Đức Giêsu đều hướng về việc tiến vào Giêrusalem hôm nay. Vào thành này, Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và giết chết. Nhưng bởi vì đó là sứ mạng của Ngài nên Ngài không ngại và còn vui mừng khi việc này sắp được thực hiện. Ngài quan tâm đến nỗi đích thân thu xếp từng chi tiết nhỏ. Ước gì chúng ta cũng không bao giờ quên sứ mạng của mình và làm mọi việc để cho sứ mạng ấy được hoàn thành, cho dù hoàn thành bằng cái giá là những đau thương khổ sở. 2. Đức Giêsu là vua, nhưng không giống những ông vua trần thế thích chiến tranh, ưa thống trị, mà là một vị vua khiêm tốn và hiền lành cỡi trên lưng một con lừa nhỏ. Đức Giêsu là vua đang “cai trị” chúng ta, không bằng uy quyền và kỹ luật sắt, mà bằng tình thương. Lẽ ra chúng ta phải vì thế mà kính mến Ngài, nhưng chúng ta lại vì thế mà coi thường Ngài! 3. Bắt đầu Tuần Thánh, Giáo Hội trình bày Đức Giêsu là vua. Chúng ta phải luôn nhớ điều căn bản này khi theo dõi những diễn biến trong cuộc chịu nạn của Ngài: dù Ngài bị bắt, bị đánh đòn, bị nhục mạ và bị giết chết, Ngài vẫn là vua và mãi mãi là vua. Bởi vì một vị vua đích thực phải là người yêu thương chăm lo cho dân mình, cho dù phải hy sinh bất cứ điều gì. 4. Một ông vua nọ muốn nhìn thấy Chúa. Ông đe dọa tất cả các linh mục và các nhà thông thái là nếu không chỉ cho ông thấy Chúa, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề. Trong lúc các vị suy nghĩ tìm cách, thì một người chăn cừu dẫn vua đến bãi cỏ, chi lên mặt trời và nói: “Hãy chăm chú nhìn”. Vua cố gắng cách cực khổ rồi gục đầu xuống và hét lên: “Ngươi muốn cho Ta mù phải không?” - Tâu bệ hạ, mặt trời chỉ là một tạo vật của Chúa, một hình ảnh mờ nhạt của Người. Nếu ngài không thể nhìn vào mặt trời, làm sao ngài có thể nhìn vào Chúa. (Góp nhặt).
11. Thông cảm với Chúa--CN Lễ Lá A--Lm Giuse Đinh Lập LiễmA. DẪN NHẬP. Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá. Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng. Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh. Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nhói: “Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao”? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá! Chúng ta có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không? Lời Chúa tiên báo: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng ta không ? Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ: đường thập giá: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác. B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. + Bài đọc 1: Is 50, 4-7). Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ. Bài ca hôm nay là bài ca thứ ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi tớ nào đó, được Isaia diễn tả với những đặc tính sau đây: a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung thành với nhiệm vụ được giao phó nên đã chấp nhận tất cả: sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn. b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống bạo lực. c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình. + Bài đọc 2: Pl 2, 6-11. Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo trước. Nơi Người có hai sự tương phản rõ rệt: sự tự hạ phi thường và chiến thắng vinh quang. Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể là một Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải nhận uy quyền của mình. Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ mình làm một người tôi tớ, hạ mình đến tận cùng để phục vụ. Những ai càng hạ mình càng được nâng lên, sự hạ mình khiêm tốn của Chúa Giêsu đã được đền đáp: Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài muôn vật. + Bài Tin Mừng: Mt 26,14-27,66. Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật đều có bố cục giống nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi bật lên: . Marcô chú trọng vào mục đích truyền giáo. . Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu của Chúa. . Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận của Chúa, đồng thời cũng nói lên vương quyền của Ngài. . Matthêu trình bầy đầy đủ hơn cả. Bài thưong khó này được coi như bài giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức Giêsu là ai. Bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta; đồng thời cũng là một thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh chịu đựng, cũng như thái độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương khó của Chúa sẽ giúp chúng ta biết can đảm đón nhật mọi gian nan thử thách trong cuộc sống để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Ngài. C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Cùng đau khổ với Chúa 1. Nói về đau khổ. Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18). Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. Có hai thứ đau khổ: đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau: đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn, hoặc vừøa đau đớn vừa đau khổ. Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế: Vừa sinh ra sao đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì. (Cao bá Quát) Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết: . 85% đau khổ là do người làm khổ người. . 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất… . 10% là do ngẫu nhiên. Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể. 2. Ý nghĩa của đau khổ. Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng. a) Các chủ trương trước đau khổ. * Thiên Chúa giáo: Theo nhiều bản kinh, nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ... Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng thời gian dự bị, thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực. * Phật giáo. Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường... Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm: “Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo. Chính phật Tổ cũng dạy: “Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56). * Phái Khắc kỷ Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ. Người ta kể: Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình trước đau khổ: coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng: - Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy. Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói: - Tôi đã bảo kia mà! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi. * Theo quan niệm người đời. Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ: Trời đất sinh ta âu hữu ý Khách tài tình nên trải vị gian truân, Một mai gặp hội phong vân. (Cao bá Quát) hoặc: Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử? (Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con) Kinh Thánh cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này: càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108). Cũng một lẽ: chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời. 3. Mục đích của đau khổ. Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái ; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái. Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này: “Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúc rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc. 4. Thái độ của ta trước đau khổ. Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ? Đương đầu với nó hay trốn chạy? Chiến thắng hay đầu hàng? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến: “Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”. (Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965). a) Thái độ tiêu cực. Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta. b) Thái độ tích cực Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa. Ta nghĩ thế nào về hạt cát? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích? Phải phân biệt: . Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ. . Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc. Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh: chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa. Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn: “Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát. “Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng: Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”. (Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136) 12. Bóng tối và niềm tin--Lm. GB. Trần Văn Hào(phỏng theo bài suy niệm của giáo sư Peter Feldmeier) Bước vào tuần thánh, chúng ta tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên Thập giá. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng cuối cùng họ đã trở mặt. Tất cả đã đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm. Giêrusalem, thành phố của những đối nghịch Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình lên Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là kinh thành có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là chốn biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là thành phố của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó họ đã trở mặt, lòng chất đầy phẫn nộ và sự căm thù. Giuđa thì bán đứng vị tôn sư khả kính. Trò phản thầy cách gian ác và tàn nhẫn. Các đầu mục tôn giáo thì quá quỷ quyệt đã dàn dựng một phiên tòa giả dối. Riêng các môn sinh nghĩa thiết nhất lại vội quên thầy của mình. Họ ngủ vùi trong mệt mỏi và cuối cùng đã lặng lẽ tháo lui. Phêrô thì quá khiếp hãi đã thẳng thừng chối bỏ vị tôn sư đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo nguyên ngữ Aram, có nghĩa là ‘con của cha’. Họ đã chọn để xin tha một người ‘con’ với quá khứ đặc kín tội ác, và đòi kết án người ‘Con’ duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai tội lỗi của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn. Niềm tin kiên định nơi Đức Giêsu Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của Thập giá là một chứng tá và cũng là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời xưa. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau: “ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau…, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị Tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở: “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập gía như cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm nơi Chúa Giêsu. Kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là ‘Thiên Chúa đã tôn vinh Người và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa’. Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập gía. Đức Giêsu đã hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ cho đến chết và chết trên Thập gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là Ađam đã sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu - Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa liên kết với nhau. Chúa Giêsu là Ađam mới, và cũng là người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, tình trạng sống kiếp nô lệ, và tiến nhận cái chết để giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết. Khi suy gẫm việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên Thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước những gì sẽ xảy ra. Nếu quả như thế và Đức Giêsu không thể có một sự chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Chúa trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu lại tuôn đổ đến mức thảm thiết như vậy? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7): “ Cha ơi, nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài vẫn phải thét gào một cách não nuột: “Cha ơi, sao Cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy rằng, vì Đức Kitô đã tự hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của Thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Song, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài. Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi trần gian, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan tác trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế chưa, khi chúng ta bị mất hết, bị nhấn chìm trong bóng tối của khiếp hãi? Khi gặp những bầm dập cay đắng, khi bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào chán chường hay tuyệt vọng…, chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và ở trên Thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta đang gặp phải. Kết luận Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Đức Giêsu đi vào lộ trình lên Giêrusalem, để thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
13. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ--Lm. Gioan Nguyễn Văn TyTrong trình thuật Đức Giêsu vào Giêrusalem với tư cách đấng Mêsia, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Máccô và Luca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh Đức Giêsu khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả. Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!... Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân” (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên). Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10:3; 1:14; 1Sm 25:23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức Giêsu tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18:36-38). Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết ‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; Abraham sát tế Ixaác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Ápraham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Ápraham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Ápraham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ! Như vậy cảnh tượng Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3:14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể nào khác được! Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! Amen. 14. Giờ chiến thắng vinh quang--Lm. Ignatiô Trần NgàĐức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Người được tôn vinh: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh (Ga 13, 31) Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị vác thập giá và cuối cùng là cái chết thảm thương ô nhục trên đồi Can-vê! Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì sao Chúa Giêsu gọi đây là giờ Người được tôn vinh? Đối với người không am hiểu, cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng rất oanh liệt và vinh quang. Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung. Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng trước những thượng tế, kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man tàn bạo... Chúa Giêsu vẫn không may may oán hận! Người chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Người nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu họ bằng trái tim khoan nhân... Rồi vì sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, Người tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Người: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23, 34). Đó là tâm tình đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời nầy. Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng tính khiếp nhược và lòng tham sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường. Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Người không bị khuất phục bởi cái chết. Người đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Người đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh. Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng đau đớn thể xác và đau khổ tinh thần. Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp nhất cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Người đã hoàn toàn chiến thắng tính khiếp nhược của phận người. *** Qua cách thức Chúa Giêsu đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Người lùi bước; không một đe doạ nào làm cho Người khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Người nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Người... Người thắng được bản năng tham sinh úy tử; Người vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Người thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác... Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban. Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay! Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ đớn hèn khiếp nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng nhưng giúp chúng con kiên cường chiến đấu chống lại tội lỗi và thói hư, để mai ngày được khải hoàn vinh quang như Chúa.
15. Sự Thương Khó Đức Giêsu--Lm. Thái NguyênVới Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào Tuần Thánh, là tuần quan trọng nhất trong năm Phụng vụ. Trong tuần thánh, chúng ta chứng kiến những giây phút cuối đời trần thế của Chúa Giêsu, và cử hành cuộc thương khó của Ngài là nguồn ơn cứu độ cho nhân loại chúng ta. Cũng như dân Do Thái xưa, chúng ta cầm cành lá trên tay để đón mừng Chúa như vị Vua hòa bình của thế giới. Nhưng qua bài Thương Khó, chúng ta lại thấy bao nhiêu tội lỗi nhân loại của chúng ta trút lên mình Chúa. Ngài tự gánh hết những tội tình của thế nhân, và muốn rửa sạch hết những tội ác của con người trong cái chết và sự phục sinh của Ngài, để đưa nhân loại vào đời sống mới, đời sống của con cái Thiên Chúa. Vì thế, khi nghe kể lại cuộc thương khó và khổ nạn của Chúa Giêsu, ta không thể nghe như nghe những câu chuyện lịch sử khác, nhưng nghe như một thiên tình sử muôn đời của Thiên Chúa gắn liền với cuộc đời của chúng ta. Chúng ta hãy làm sống lại thiên tình sử đó trong chính tâm hồn mình, nói một cách khác là nội tâm hóa biến cố đau thương và tử nạn của Chúa Giêsu. Qua bài Thương Khó, ta hãy khám ra con người mình qua cách hành xử của Philatô, Hêrôđê, Phêrô, Giuđa, các thượng tế, khách qua đường… nghĩa là thấy mình cũng không tránh khỏi những tội phạm tương tự như họ: gian dối, phản bội, ích kỷ, cao ngạo, làm chứng gian, hiềm thù, ghen ghét, độc ác…Vì những tội lỗi đó mà dung nhan của Chúa Giêsu nơi chúng ta bị bầm dập, tồi tàn, đến nỗi người ta không còn nhận ra hình dạng của Chúa trong đời sống của chính mình. Phải thấy được tất cả những điều đó qua mọi hành vi và thái độ sống của chúng ta đối với Chúa và tha nhân. Nhờ đó, gợi lên trong ta tâm tình sám hối sâu xa để làm một bước chuyển hóa, bằng cách dám chết đi cho tội lỗi để khơi sáng lại dung nhan Chúa Giêsu trong trái tim và trên khuôn mặt của mình. Tuần Thánh là cơ hội để chúng ta nên thánh, vì Chúa là Đấng Thánh. “Điều hối tiếc lớn lao nhất là không nên thánh” (L. Bloy). Không nên thánh là phản bội và chối từ tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, cũng là phản bội và từ chối chính mình, không còn là mình trong chương trình của Thiên Chúa. Mình chỉ là mình khi đáp trả tình yêu của Chúa hết mình. Tình yêu ấy phải được thể hiện giống như tình yêu mà Chúa đã yêu thương chúng ta, cụ thể hóa ngay trong đời sống gia đình, trong cộng đoàn Giáo xứ, với mọi người quen thân hay xa lạ, với kể cả kẻ thù, đặc biệt là đối với những người khốn khó, bé nhỏ, nghèo hèn. Không có tình yêu, ta không là gì cả! Nhưng với tình yêu, ta sẽ là tất cả. Chỉ có tình yêu mới làm nên những điều huyền diệu chứ không phải tài năng hay đức cao vọng trọng. Thế giới này cũng vậy, chỉ được thu phục bởi tình yêu. Cha thánh Vianey cũng đã khẳng định: “Thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu!”. Chúng ta không ước ao làm nên một cái gì lớn lao như một thứ cao vọng, nhưng khát khao được trở nên công trình tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã khởi đầu và muốn hoàn thành cuộc đời chúng ta theo dự định của Người. Tuần thánh năm nay phải là một cuộc đổi đời như Chúa hằng mong đợi nơi mỗi người chúng ta. Cầu nguyện Lạy Chúa Giêsu! Đối diện với Thập giá Chúa, con thấy mọi loang lổ của tâm hồn con, đều được phơi bày trên thân xác Chúa. Con kiêu căng nên Chúa phải bị treo. Con ích kỷ nên Chúa chẳng còn gì. Con lãnh đạm nên Chúa bị bỏ rơi. Con no thỏa nên Chúa đành đói khát. Con ham muốn nên Chúa phải trần truồng. Con hà tiện nên Chúa chịu oan khiên. Con lười biếng nên Chúa phải ưu phiền. Con ghen ghét nên Chúa bị đâm thâu. Con gian dối nên Chúa đội mão gai. Con buông thả nên Chúa bị nhục mạ. Con xa hoa nên Chúa chịu đóng đinh. Con tham lam nên Chúa chịu hành hình. Con hận thù nên Chúa chết điêu linh... Xin xóa tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin cứu vớt con khỏi sa vòng lâm lụy. Ôi Thập giá mãi mãi đáng yêu vì! Amen. (Trích sách: Lời nguyện từ trái tim, số 62) 16. Thương khó--Lm. Giuse Trần Việt HùngBước vào Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta cơ hội lắng nghe và suy niệm về sự thương khó của Giêsu Kitô là Đấng Thánh. Chúa Giêsu đã thực hiện tất cả những lời tiên báo của tiên tri Isaia về biến cố đau thương của người tôi tớ: Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi (Is 50, 6). Đây là Bài ca thứ ba mà Isaia đã loan tin về Người Tôi Tớ Chúa, viết khoảng hơn 500 về trước. Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn một kiếp người, có sinh ra và có từ trần. Quãng đời của Chúa sống trên trần gian chỉ vỏn vẹn 33 năm. Chúa đã sống ba mươi năm âm thầm lặng lẽ và trưởng thành nơi miền Nazaret bé nhỏ. Chúa Giêsu chỉ dùng ba năm cuối đời để rao giảng Tin mừng, làm các phép lạ và mạc khải về Nước trời. Ba năm giảng đạo của Chúa gặp rất nhiều khó khăn thách đố. Xuất thân từ làng quê miền Nazarét, ngay từ khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã bị nhiều người nghi ngờ, khinh dể và coi thường. Với dáng vẻ bình thường của một thanh niên trẻ, Chúa Giêsu bắt đầu sứ mệnh rao giảng Tin mừng cứu độ. Đối diện với một hệ thống tôn giáo hình thức và xã hội có truyền thống lâu đời, từng bước Chúa Giêsu đã đánh động con tim, khơi dậy tình yêu và canh tân cuộc sống. Như một nhà cách mạng nội tâm đổi đời, Chúa Giêsu đã đối mặt với nhiều sự chống đối, tẩy chay và thách thức. Một thân một mình gầy dựng, mời gọi và chọn lựa một nhóm môn đệ nồng cốt để truyền đạt chân lý nước trời. Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của mỗi người. Chúa vạch rõ con đường để đi tìm sự thật, bất chấp những đố kỵ, ngăn cản và thù ghét. Một niềm tin tưởng và chu toàn thánh ý Chúa Cha. Tiên tri Isaia diễn tả sự vâng phục: Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi không phải hổ thẹn (Is 50, 7). Trong những năm giảng dậy, Chúa Giêsu đã mạc khải tất cả mầu nhiệm về Nước Trời. Chúa đã dùng mọi hình ảnh, câu truyện, kinh nghiệm cụ thể, các tỉ dụ, dụ ngôn, ngụ ngôn và lời Kinh thánh để làm sáng tỏ con đường dẫn về quê trời. Mỗi một lời nói, hành động và phép lạ đều minh chứng quyền năng giảng dậy của Chúa. Chúa Kitô đã dạy, đã sống và đã hoàn tất mọi điều Ngài truyền dậy. Ngài cũng chu toàn mọi lề luật ràng buộc của xã hội. Về tôn giáo, Chúa đã đến không phải để phá hủy lề luật, nhưng làm cho kiện toàn. Đặc biệt về cách thức giữ luật ngày Sabát, Chúa Giêsu đã bị các nhà Luật sĩ, Biệt phái, Trưởng Lão và các Thầy Tư Tế bắt bẻ và kết án nhiều nhất. Theo truyền thống, người Do-thái giữ luật ngày Sabát một cách rất khắt khe nhiệm nhặt. Ngay trong cuộc sống hôm nay, nhóm người Do-thái chính thống vẫn giữ ngày Sabát một cách rất tỉ mỉ và kỹ lưỡng. Từ chiều thứ Sáu, vọng ngày Sabát, họ đã chuẩn bị nấu nướng và sắp xếp mọi thứ cần dùng. Khoảng sau 3 giờ chiều, họ sẽ không làm bất cứ một việc gì dù nho nhỏ và giữ trọn ngày Sabát. Các cửa tiệm đóng cửa và đường xá vắng tanh. Họ hoàn toàn dành giờ nghỉ ngơi, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Trong cuộc hành hương Đất Thánh vừa qua, tôi có kinh nghiệm một chút thế nào là việc giữ ngày Sabát. Khi chúng tôi về tới khách sạn Ramada tại Giêrusalem, vì qua một ngày dài hành hương mệt mỏi, khi thấy cầu thang máy mở cửa, chúng tôi vội bước vào thang máy. Không để ý thang máy chỉ ngưng ở những lầu có số chẵn 2, 4, 6, 8…Chúng tôi ở lầu 7 nên không ra được. Đi lên đi xuống một vài vòng, chúng tôi phát hiện là thang máy đã được gài xét tự động vào vọng ngày Sabát. Chúng tôi đành phải đi ra để đổi sang thang máy khác. Vì người Do-thái kiêng việc xác, nên sẽ không giơ tay bấm số chọn lầu. Tôi học biết trong khách sạn, vào vọng chiều thứ Sáu và ngày Sabát, có một thang máy dành cho các lầu mang số lẻ và một thang máy dành cho các lầu có số chẵn. Còn có hai thang máy khác dành cho mọi người xử dụng chung. Đây là một trong những cách giữ luật ngày Sabát. Vì giữ truyền thống muốn bám sát với các quan niệm và thực hành tôn giáo đương thời, các người lãnh đạo tôn giáo đã rơi vào sự ghen tị và gây nhiều sự bất đồng với những lời giảng dậy và việc làm của Chúa Giêsu. Các người Biệt phái và Luật sĩ dựa vào lời Kinh Thánh để kết án Chúa Giêsu về việc không tuân giữ luật ngày Sabát, không rửa tay trước khi ăn và tội phạm thượng… Chúa Giêsu lại dứt khoát thay đổi những hình thức thờ phượng giả tạo bên ngoài của việc ăn chay, bố thí, lễ dâng, những sự khoe khoang rỗng tuếch và những lời cầu kinh chỉ bằng môi miệng nhưng tâm hồn thì xa Chúa. Ngày qua ngày, sự ghen tương thù ghét chất chồng, nên các nhà lãnh tạo tôn giáo tìm cách tiêu diệt Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhận biết sự thù oán của họ, nhưng Chúa vẫn tiếp tục mở con đường hẹp dẫn tới sự sống thật. Vì Chúa muốn tình yêu, chứ không muốn hy lễ. Kính thờ Thiên Chúa trong thần trí và sự thật. Chúa Kitô đã sẵn sàng đón nhận chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Trước khi chịu khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đã tha thiết nguyện cầu cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha” (Mt 26, 42). Thời gian đã mãn, Chúa Kitô quyết định trở về Giêrusalem trong mùa lễ Vượt Qua của người Do-thái để hoàn tất sứ mệnh cứu độ. Các nhóm lãnh đạo tôn giáo đã toa rập gây cớ để bắt và xử án Chúa. Chúa Giêsu đã nhường bước và chấp nhận mọi xỉ nhục khổ đau mà không hề than van. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi cuốn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quì gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: “Tâu vua dân Do-thái” (Mt 27, 28-29). Được dịp trả thù, các quan quyền, các nhà lãnh đạo tôn giáo, quân lính và dân chúng đã xỉ vả và hành hạ Chúa cho đến chết. Sau khi Chúa bị bắt, bị tra khảo, nhịn đói, nhịn khát, bị giam hãm, đánh đòn, đội vòng gai, vác thập giá nặng nề leo lên núi sọ, bị xô đẩy, bị đóng đinh treo trên thập giá và bị lưỡi đòng đâm thấu trái tim, Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh và gục đầu trút hơi thở: Đoạn Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở (Mt 27, 50). Cách đây hơn hai ngàn năm lịch sử, Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ và đã kết thúc sứ mệnh cứu rỗi trên một vùng đất cụ thể là nước Do-thái. Ngày nay, người ta đã cố công khơi quật hoặc xây cất những thánh đường tại những nơi đã có dấu chân của Chúa, để giúp khách hành hương đến cầu nguyện, suy niệm, cảm nhận và hun đúc niềm tin. Đến thành Thánh Giêrusalem, theo truyền thống, chúng ta có thể kính viếng những nơi mà xưa Chúa đã đi qua như thăm viếng và cầu nguyện tại vườn cây dầu, chỗ Chúa bị bắt, chịu tra trấn và hầm giam, con đường thánh giá lên núi Sọ, nơi Chúa chịu đóng đinh và chết, nơi tắm xác, Mộ Chúa và nơi Chúa Phục Sinh từ cõi chết. Thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu thành Philipphê đã viết: Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với thiên Chúa (Phil 2, 6). Mang thân phận con người, Chúa Giêsu đã hiến dâng chính mình làm hy lễ trên thập giá để đền tội thay cho cả nhân loại: Người đã hủy bỏ chính mình, mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm (Phil 2, 7) Lạy Chúa, Tuần Thánh là cao điểm việc cử hành tưởng niệm Chúa đã chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Xin cho chúng con thấu hiểu và cảm nhận được tình yêu thương vô bờ của Chúa. Vì yêu, Chúa đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng con. Xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con đã phạm. Xin đưa dẫn chúng con tham dự vào niềm vui vinh quang phục sinh của Chúa.
17. Mầu nhiệm đau khổ--Lm Phêrô Nguyễn Hữu DuyPhụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Lá đọc lại Bài Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Tiếp đến là Tuần Thánh, cao điểm tưởng niệm cuộc khổ nan của Chúa. Trong bầu khí suy niệm về thập giá-con đường Chúa chọn để cứu nhân lọai, chúng ta nghĩ về Mầu Nhiệm Đau Khổ. Gọi đau khổ là một mầu nhiệm theo nghĩa "bí nhiệm, khó hiểu" cũng được; hay theo nghĩa của Gabriel Marcel: nó là "huyền nhiệm", khác với "vấn đề", chúng ta không thể giải quyết cách khoa học, mà là cảm nghiệm cá nhân của người từng kinh qua cũng mới hiểu, cũng đúng. Người ta quá quen với lời than van " Đời là bể khổ, hữu thân hữu khổ". Cái khổ đã trở thành qui luật của cuộc sống con người, do "bệnh, lão, tử", và ngày nay cho rằng cả "sinh" nữa, đều làm cho con người đau khổ. Sợ "sinh" làm khổ nhân lọai nên ngày nay người ta "chống sinh". Có nhiều nguyên nhân gây đau khổ mà kinh nguyện xưa gọi là "... đói kém, ôn dịch, mất mùa, giặt giả", có khi bí ẩn người ta cho là do "số phận". Tuy nhiên, có thể coi con người là nguyên nhân chính của sự đau khổ. Nỗi khổ của lụt lội, hạn hán, bệnh dịch..., hay ngay cả sóng thần mà ta qui cho thiên tai, cũng có nguyên nhân sâu xa do con người tàn phá thiên nhiên, vắt kiệt thiên nhiên làm thiên nhiên "nổi giận". Còn chiến tranh, khủng bố, diệt chủng, phá thai, bắt con người làm thí nghiệm, vu khống, trù dập, chửi mắng... gây buồn, khổ và hại người khác, thì quá rõ trực tiếp là do con người. "Người với người là chó sói", "tha nhân là hỏa ngục" là thế! Thái độ của người Kitô Hữu trước đau khổ thế nào? Vẫn biết tội là nguyên nhân của sự đau khổ "Từ tội đầu tiên (nguyên tội), cả trần gian này chìm trong tội lỗi: huynh đệ tương tàn, khởi đầu là Cain giết Aben (St 4, 3-15), tiếp đến là sự xa đọa của loài người... " (Giáo Lý Tòan Cầu số 401), nhưng chúng ta không theo quan niệm "trời trả báo" để qui gán sự đau khổ là hậu quả tất yếu do tội lỗi của cá nhân đương sự hay sự thất đức của gia đình. Khi thấy người mù từ khi mới sinh đau khổ trong cảnh mù lòa, các Tông đồ hỏi Chúa: bởi tội của y hay do tội cha mẹ y mà y phải chịu vậy, Chúa Giêsu trả lời: "Không phải anh ta cũng chẳng phải cha mẹ anh ta phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta." (Ga 9, 2-3). 1. Cựu Ước: Người công chính vẫn phải đau khổ, đau khổ nhiều hơn nữa thì phải. Chính ông Gióp trong Cựu ước là một bằng chứng. Rồi Môsê-Tôi tới trung thành, rất được Chúa yêu mến đã đau khổ vì Dân Chúa: "Con phải làm gì cho Dân này bây giờ? Một chút nữa là họ ném đá con!" (Xh 17, 4) khi dân chúng gây sự, kêu trách Môsê. Môsê đã đau khổ tột cùng đến nỗi phải xin được chết đi cho rồi: "Ông Môsê thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà than khóc tại cửa lều mình. Còn Đức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm và thưa với Đức Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ... nếu Ngài xử với con như vậy thì thà giết con đi còn hơn." (Ds 11, 10-15). Nhân vật vĩ đại của Cựu Ước, người diễm phúc được Chúa hứa "Ta sẽ ở với ngươi" (Xh), được diện đối diện với Chúa, đã đau khổ nhiều trong trong thân xác khi lữ hành 40 năm sa mạc, lại chịu những đau khổ tinh thần đến thế! 2. Đức Kitô Từ đây chúng ta sẽ không quá ngạc nhiên khi Đức Giêsu Kitô, Đấng Chúa Cha phán "đẹp lòng Ta mọi đàng" phải trở thành Người Tôi Tớ Đau Khổ, phải thốt lên lời Thánh Vịnh bi ai: "Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa tôi, sao Chúa bỏ tôi" (Tv 22, 2; Mt 27, 45) khi bị treo trên thập giá. Chúa chúng ta không chỉ chịu đau đớn nơi thân xác mà còn chịu đau khổ trong hồn khi bị Giuđa phản bội, Phêrô chối từ, môn đệ bỏ trốn, dân chúng sỉ nhục, bị nhổ vào mặt... Bởi Chính Ngài là "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của chúng ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta." (Dt 4, 14-15) hưởng nếm trọn vẹn tiếng kêu than của thân phận con người bị vùi dập tứ bề, được diễn tả qua lời Thánh Vinh: - Khi bị người tín cẩn phản bội: "Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi." (Tv 55, 13-14) - Khi Chúa bị bao vây bắt trong vườn Dầu: "Kẻ thù con lòng chai dạ đá, mở miệng ra là ngạo mạng khinh đời, rầm rập tới kìa chúng đa bao quanh, mắt trừng trừng như muốn quật con xuống đất, thật giống loài sư tử chực nuốt sống ăn tươi, hệt như con mãnh thú, rình rập ở bụi bờ" (TV 17, 10-12); "Sóng tử thần dồn dập quanh tôi, mạng lưới âm ty bủa vây tứ phía" (Tv 18, 5); - Khi bị đánh đòn, giầy đạp, kéo lôi... "Lạy Thiên Chúa xin thương xót con cùng, vì người ta giày xéo thân con, và suốt ngày tấn công chèn ép" (Tv 56, 2); "Lạy Chúa, xin xót thương, bởi vì con lâm cảnh ngặt nghèo. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con. Lạy Chúa, xin đừng để con phải nhục nhã, vì đã kêu cầu Ngài" (Tv 31, 10.16.18); - Khi Chúa bị nhổ vào mặt và bị chê là điên khùng: "Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi khinh thường" (Tv 21, 7); - Khi bị người ta tố cáo vu khống: "Lạy Chúa, xin đừng phó mặt con cho kẻ thù hung hãn; vì lũ chứng gian đứng dậy tố con, giương bộ mặt hằm hằm sát khí." (Tv 27, 12) ... Bộ phim cuộc thương khó nổi tiếng mới đây của đạo diễn Mel Gibson diễn tả khá đạt sự đau khổ này. 3. Thánh Phaolô Chính Thánh Phaolô, Tông đồ dân ngoại cũng đã đau khổ nhiều. "Tôi nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần súyt chết. Năm lần bị người Dothái đánh 40 roi bớt một; ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi..." (2 Cr 11, 23-25) Đó là những đau khổ thể xác Phaolô chịu, ngài còn bị một "cái dầm" mà các nhà chú giải cho rằng đó là chứng bệnh kinh niên, phải mang cả đời: "Và để tôi khỏi tự cao tự đại về những mạc khải phi thường tôi đã được, thân xác tôi đã bị một cái dầm đâm vào, một thủ hạ Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thóat khỏi nổi khổ này. Nhưng Ngài quả quyết đối với tôi: ơn của Thầy đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." (2 Cr 12, 7-9) Phaolô cũng đã bị khổ tâm do nhiều người khác gây nên trong ba cuộc hành trình truyền giáo, ngài đã chia sẻ với các tín hữu Corinthô: "Thật thế, tôi đã đau khổ nhiều, nước mắt chan hòa, lòng se lại mà viết cho anh em... " (2Cr 2, 4) và với Timôthêô: "Alexandre, người thợ rèn, đã gây cho cha nhiều khốn khổ; Chúa sẽ cứ việc anh làm mà trả báo, cả con cũng hãy đề phòng anh ta, vì anh ta mạnh mẻ chống lại lời chúng ta rao giảng." (2 Tm 4, 14-15) 5. Các thánh đã trải nghiệm sự đau khổ. - Thánh Phanxicô Assisi ốm đau liệt lâu ngày đến nổi hễ cử động tứ chi là phải đau đớn ghê sợ, nhưng đã gọi sự đau đớn của ngài là "chị em thân thiết". - Thánh nữ Bernadette, người được Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, đã từng chữa lành bệnh tật cho người khác cũng phải đau khổ nhiều: bị chống đối, chịu sỉ nhục, bị bệnh xuyễn hành hạ từ nhỏ và ngày càng trầm trọng cho đến chết. - Thánh nữ Magarit đệ Cortone chịu đau khổ vì Chúa đã nói: "Ngày nào con còn sống, con hãy chuẩn bị để chiến đấu và chịu những đau khổ gây gắt, vì vàng lọc trong lửa, nên Ta cũng sẽ tẩy rửa con bằng khổ cực, cám dỗ, tàn tật, đau đớn, lo sợ, thức khuya dây sớm, nước mắt, đói khát và ẩm thấp. Vì khi con đã được thanh tẩy, con sẽ vào nơi vinh hiển của hạnh phúc đời đời." (Lm. Hocedez, Tin Mừng về Đau Khổ, trang 62) Đó chính là giá trị của đau khổ mà thánh Phaolô đã xác quyết: "Thật vậy, tôi nghĩ rằng đau khổ bây giờ chúng ta chịu bao giờ so sánh được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta." (Rm 8, 18); "Giờ đây tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích của thân thể Người là Hội Thánh." (Cl 1, 24) Thánh Phêrô, người trước kia sợ đau khổ đã chối Thầy, nhờ sức mạnh của Thầy đã tự nguyện xin đóng đinh ngược vì không xứng chết như Thầy, khích lệ những ai đau khổ: "Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hĩ." (1 Pr 4, 13) Vậy chúng ta phải tôn vinh đau khổ và chạy đi tìm đau khổ ư? Không, không phải thế và nhất là không bao giờ gây đau khổ cho nhau. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, đau đớn trong bệnh tật tâm sự: "Em vui vẻ vì trong mình đang phải đau đớn, em vẫn phải cố gắng yêu quí sự đau khổ và tiếp nhận đau khổ cách niềm nở, tươi tỉnh... nay em mỉm cười trước đau khổ và trong đau khổ, với em đã là một tâp quán." Vị thánh nữ tiến sĩ, qua đời ở tuổi 24 trong bệnh tật, người mà bác sĩ trị bệnh phải thú nhận: "Chà, các bà mà hiểu được sự đau đớn của người! Tôi chưa thấy ai phải đau đớn thế mà lại vui vẻ được thế! Lạ lùng! Chính là một thiên thần! Tôi không thể chữa được người, linh hồn ấy đã bất phục thủy thổ trần gian!", người nữ tu trẻ vui cười trong đau khổ như là một tập quán, thế nhưng đã khiêm tốn nhìn nhận: "Tuy nhiên chẳng khi nào con dám xin Chúa gởi đau khổ cả thể, vì con hèn sức yếu đuối lắm! Con mà xin thế những đau khổ ấy sẽ thuộc về con và riêng sức con phải gánh chịu, nhưng sức riêng con có làm nên trò trống gì bao giờ." (Môt Tâm Hôn, trang 255-256). Bởi vậy, đối đầu với đau thương thử thách, chúng ta chỉ biết chạy đến Chúa "là Đá Tảng, chiến lũy, cứu tinh, thạch động, khiên thuẩn, uy quyền cứu độ, sức hộ phù." (x. Tv 17, 2-7) của chúng ta. Và hãy khích lệ nhau, cũng như tự khích lệ mình rằng: "Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa" (Tv 27, 14). "Lạy Chúa, Chúa cho của cải, Chúa vuốt ve, vì sợ con qua mệt nhọc trên đường về quê, Chúa lấy lại, Chúa đánh mắng, Chúa điều khiển để chúng con khỏi rời xa nẻo chính. Nhưng dầu Chúa có vuốt ve hay đánh mắng, Chúa vẫn là nơi ẩn náu của chúng con" (Thánh Augustin) Không cần tìm đau khổ (vì sẽ tự nó đến) và không ngạc nhiên gặp khổ. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, cũng đang hy sinh trong những thử thách về sức khỏe của tuổi già sau quảng đường dài phục vụ quên mình. Ngài đang hướng dẫn Giáo Hội bằng con đường thập giá của Thầy Giêsu Chí Thánh. Đối mặt với đau khổ hiện tại, chúng ta thực hành lời dạy của Thánh Giacôbê Tông Đồ: "Ai trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca." (Gc 5, 13) hầu hướng đến tương lai đầy hy vọng của trời mới đất mới, nơi: "Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điêu cũ đã biến mất." (Kh 21, 4) 18. Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống--Lm. Antôn Nguyễn Văn ĐộVới Chúa nhật của Niềm Vui (Laetare) vừa qua, màu hồng Phụng Vụ của Giáo hội là màu của bình minh, hé mở ánh sáng huy hoàng của Đại Lễ Phục Sinh sắp tới. Dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết. Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu. Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11, 4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: "Lagiarô đã chết" (Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11, 4). Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư? "(Ga 11, 8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: "Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người" (Ga 11, 53). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: "Lagiarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự song. Niềm hy vọng của chúng ta Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: "Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ" (Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha "Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống" sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết. Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Đức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được. Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì " thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi" (Rm 8, 10) nhưng "nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa "Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới". (Rm 6, 4). Thật là đại tin mừng: "Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" (Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết", há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Đã an táng Lagiarô ở đâu?" Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại. Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21). "Hãy đẩy tảng đá ra" (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52). "Hãy cởi ra cho anh ấy đi" (11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa. Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng Là người thật, Đức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: "Ta sẽ mở cửa mồ cho các người, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ" (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em" (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
19. Chúc Tụng Đấng Đến Nhân Danh Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Văn HữuHôm nay cùng với dân Do-thái xưa và toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng đón rước Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giêrusalem. Cũng như dân Do-thái, chúng ta và toàn thể Giáo Hội vừa đi vừa hô vang: “Vạn tuế Con vua Đavid! Chúc tụng Đấng đến nhân danh Chúa.” Vâng, ‘nhân danh Thiên Chúa’, Đức Giê-su đến với chúng ta trong thân phận con người, giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Và Người rảo khắp các nẻo đường Palestina để rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ, ‘tìm và cứu chữa những gì hư mất’. Nhân danh Thiên Chúa’, Người ngồi trên lưng lừa mà khải hoàn vào thành Giêrusalem và sẵn sàng hiến dâng mạng sống, chết treo trên thập giá, để khơi nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Nhân danh Thiên Chúa’, Người trỗi dậy từ trong cõi chết, vĩnh viễn đánh bại tử thần, đem đến niềm hy vọng phục sinh cho những kẻ tin thờ Thiên Chúa và chỉ yêu mến một mình Ngài mà thôi. Tắt rằng: ‘Nhân danh Thiên Chúa’, Đức Giê-su làm toàn những điều tốt đẹp, để cho nhân loại ‘được sống và sống dồi dào’ trong tình yêu tự hiến của Người. Chính vì thế, mọi loài mọi vật trên trời dưới đất tôn vinh chúc tụng Người “là Chúa Tể vạn phúc vô song, là Vua các vua, Chúa các chúa… Kính dâng Người danh dự và uy quyền đến muôn thuở muôn đời” (x. 1Tm 6,15-16). Đức Giê-su là vậy. Còn nhân loại chúng ta thì sao ? Nhân danh Thiên Chúa’, người ta có thể sẵn sàng đầu tư sức người sức của để làm việc từ thiện bác ái, xây dựng nhà thờ và các công trình phúc lợi khác… Nhưng người ta cũng có thể ‘nhân danh Thiên Chúa’, để làm những điều xằng bậy. Cụ thể: – ‘Nhân danh Thiên Chúa’, các Thượng Tế, Hội Đồng Kỳ Mục cùng dân chúng Dothái tìm bắt Đức Giêsu (x. Ga 11,46-53), đánh đòn, tra khảo (x. Mt 26,63) và đóng đinh Người vào thập giá. – ‘Nhân danh Thiên Chúa’, người Công giáo, người Chính Thống và người Tin Lành ra vạ tuyệt thông và đánh lộn lẫn nhau… như đã từng xảy ra trong lịch sử. – ‘Nhân danh Đức Alla, thiên chúa của Hồi giáo’, họ mở những cuộc thánh chiến, đánh bom khủng bố, tiêu diệt các tín đồ của các tôn giáo khác… Chẳng hạn: từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 3 năm 2012, anh Mohammed Merah, 23 tuổi, một tín đồ Hồi giáo đã làm cho cả nước Pháp rúng động, khi anh đã ‘nhân danh Đức Alla, thiên chúa của Hồi giáo’ bắn chết 7 người, trong đó có em Myriam Monsonego 7 tuổi, hai em Arieh 4 tuổi và Gabriel 5 tuổi… trước cổng trường Ozar Hatorah tại thành phố Toulouse, miền nam nước Pháp. Mới đây ngày 3 tháng 4 năm 2017, một kẻ đánh bom tự sát tên là Akbarzhon Jalilov, sinh năm 1995 tại Osh gây ra vụ nổ chết chóc trên tàu điện ngầm ở thành phố St. Petersburg, Nga, làm 11 người thiệt mạng và 45 người bị thương. Theo điều tra của cục cảnh sát liên bang Nga tên này có liên hệ với phiến quân Hồi giáo (x. Vnexpress.net ). Thế giới loài người là vậy đó. Họ đã nhân danh Thiên Chúa vô hình để xử tử, đóng đinh một vị Thiên Chúa hữu hình. Họ đã nhân danh Thiên Chúa luôn yêu thương loài người để trả thù và giết chết những anh chị em đồng loại là cái hình cái ảnh của Thiên Chúa trên trần gian… Muốn sống và xử sự đúng đắn, ta cần phải nhìn vào Đức Giêsu và học những bài học của Người. Không được nhân danh Thiên Chúa Sự Sống để làm hại sự sống của mình và của người khác dưới bất cứ hình thức nào… Nhưng hãy hết lòng phục vụ sự sống con người, cổ võ nền văn minh sự sống và làm tất cả những gì có thể làm để gìn giữ, bảo vệ sự sống con người. Vì mạng sống con người là linh thánh bất khả xâm phạm, có giá trị tuyệt đối, không gì có thể thay thế được. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết ‘nhân danh Thiên Chúa’ mà làm những điều tốt đẹp như Người, để ơn cứu độ của Chúa được lan rộng khắp trần gian. Amen. 20. Suy niệm Lễ Lá--'Niềm Vui Chia Sẻ'Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: "Hoan hô Con Vua Đavit" có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tổng trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!" Thưa anh chị em, Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba mà thôi. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá. Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế. Anh chị em thân mến, Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường, từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn. 21. Kinh nghiệm đau đớn của Phêrô--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille DegeestBài tường thuật cuộc đau khổ của Chúa Giêsu thật khó diễn giải. Tự nó đã nói rất nhiều rồi. Phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, phải để nó thấm nhập vào mình, tìm cách chịu đựng tính chất thực tế của nó, mở lòng đón nhận cái sứ điệp nó đề nghị. Chúng ta thử dừng lại ở một điểm: ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ tự phụ, yếu đuối, ăn năn. 1) Hai câu 26,33-34 cho ta thấy Phêrô trung tín chừng nào, nhưng đồng thời cũng không biết rằng chước cám dỗ có thể bất ngờ và dữ dội ra sao. Trong những trường hợp khác, ông nghe lời Chúa Giêsu mà quyết định ngược lại với chính mình, còn đây ông lại phản đối lời Người. Chúa báo trước các môn đệ sẽ lìa bỏ Người. Phêrô cho là chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa nói thêm rằng ông sẽ chối Chúa trước khi gà gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa ngã, đàng này ông phản ứng mạnh mẽ, đầy tin tưởng vào mình. Ông thành thực lắm. Ông cảm thấy không gì lay chuyển tình yêu đối với Thày. Ông không thể chấp nhận lời Chúa Giêsu báo trước rằng ông sẽ sa ngã. Cuối cùng, khi Chúa dặn ông phải tỉnh thức và cầu nguyện, thì Phêrô không thức, nhưng lại ngã ra ngủ, lòng vẫn đầy tin tưởng vào mình. Phải chăng ta gặp thấy một ‘âm vang’ của cái kinh nghiệm đau đớn này trong lời căn dặn mà sau này Người sẽ viết ra: “Hỡi anh em, hãy tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé…” (1Pr 5,8). 2) Kẻ thù ồn ào và gầm thét đã tấn công Phêrô, đó là đám đông đã bắt Chúa Giêsu và tìm hết cách tỏ lòng căm phẫn đối với Người. Phêrô lo sợ, mà không biết mình sợ. Vì không biết mình, nên ông đã không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh: Phêrô theo Chúa xa xa, đến dinh thày cả thượng phẩm. Ông tưởng rằng sự việc rồi cũng sẽ kết thúc như bao nhiêu lần Chúa Giêsu đã chấm dứt những hành vi gây hấn của bọn Do thái. Ông chờ đợi mà không đề phòng. Ông sẵn sàng để sa ngã. Chỉ một câu hỏi của một người đàn bà cũng làm ông bối rối, một nỗi bối rối xen lẫn sợ hãi, tính hèn nhát và bản năng bảo tồn, mặc cảm tự ti là người xứ Galilêa, ‘khả năng’ nói dối. Ông chối Chúa Giêsu. 3) Nhưng Phêrô hối hận. Tiếng gà gáy làm ông nhớ lại lời tiên báo của Chúa. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là ở lòng khiêm nhường, thành thực, tin tưởng dù đã sa ngã. Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có tội mà không phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không quanh co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm nghịch lại lời cam kết với Chúa Giêsu. Ông cảm thấy lờ mờ rằng nhờ nhận lỗi mình cách thành thật, ông được Thày khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động, và vì đối với một người khí phách như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi. Phêrô thống hối đã được tha thứ và nên hùng tráng. 22. Cành lá phản bội-Mt 26,14-27,66--‘Niềm Vui Chia Sẻ’--R. VeritasMột trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembradt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “Ba Thập Giá”. Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét… Tác giả như muốn nói rằng: không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu. Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt, tác giả của bức tranh này. Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembradt, nhà danh hoạ lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu. Anh chị em thân mến, Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá. Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đớn đau như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải bị treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày này, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một xỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Ngài… Thử hỏi, nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án của Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác đỡ thập giá Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Phalatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh, tương tự hành động của Giuđa! Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế. Thưa anh chị em, với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông quần chúng nô nức phất cao cành lá “hoan hô Con Vua Đavit” có vẻ một cuộc toàn thắng vang dội. Thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của quần chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào vào những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”. Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Còn đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành đô Giêrusalem và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá. Trong những ngày thánh này, chúng ta phải tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết… Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Đức Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Càng suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn. 23. Tin và không tin--Lm. Giuse Đỗ Đức TríHôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tuần Thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép và kiệu lá, tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem được người Do Thái tung hô: Hoan hô con vua Davit! Trong suốt Tuần Thánh cũng là tuần lễ Giáo Hội theo sát Đức Giêsu trong những ngày cuối cùng của Ngài cho đến khi bước vào cuộc khổ nạn. Khung cảnh ngày lễ hôm nay mang màu sác tương phản, lúc đầu lễ là một cuộc rước tưng bừng theo hình ảnh cuộc rước của dân Do Thái ngày xưa khi Đức Giêsu công khai vào thành Giêrusalem trong tư cách là Vua Mesia, ngay sau đó các bài đọc và bài Tin Mừng lại kể về cuộc thương khó của Người. Trong trình thuật cuộc thương khó cho thấy những người Do Thái đồng hương của Chúa, họ tìm mọi cách để loại trừ Đức Giêsu vì họ không tin Ngài là Đấng Mesia - Con Thiên Chúa, trong khi đó chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài thì những người dân ngoại lại tin nhận Ngài là người công chính. Những người Do Thái họ muốn loại trừ Chúa Giêsu vì thấy Đức Giêsu không như họ nghĩ và Ngài đã không đáp ứng những điều họ muốn, những người này không chấp nhận một vị Thiên Chúa mà lại khiêm nhu mang gương mặt của một người đầy tớ như bài đọc thứ nhất mô tả. Trong khi họ chờ đợi một Đấng Mesia oai phong, bách chiến bách thắng, thì Isaia lại nói về một tôi tớ khiêm hạ, đưa lưng cho kẻ đánh mình, và đưa má cho kẻ giật râu, không tránh né những lời nhạo cười phỉ nhổ. Hình ảnh người tôi tớ của Thiên Chúa đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng đã đến và sống theo tinh thần của một người tôi tớ phục vụ, và cư xử nhân từ tha thứ, trong khi đó người Do Thái lại muốn một Thiên Chúa phảỉ trừng phạt hết những kẻ mà họ cho xấu xa, như quân La Mã để đem lại sự độc lập và thịnh vượng cho đất nước, họ không chấp nhận Đức Giêsu giao du tiếp xúc với người thu thuế và tội lỗi, họ muốn một Thiên Chúa phải đáp ứng ngay lập tức những thứ họ cần. Chính vì Đức Giêsu đã không như họ mong đợi, nên những người Do Thái đã muốn mượn tay Philatô để loại trừ Ngài. Để thực hiện ý đồ này, những người lãnh đạo Do Thái đã không ngần ngại vu khống bịa chuyện, xuyên tạc để có cớ lên án Chúa Giêsu. Những người Do Thái cho là Chúa Giêsu nói phạm thượng khi Ngài xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng đến từ Thiên Chúa và làm những việc của Thiên Chúa, họ cho rằng Chúa Giêsu lộng ngôn khi dám tuyên bố tha tội cho người mù và người bại liệt, và là người vô đạo khi vi phạm trầm trọng luật nghỉ việc ngày Sabat. Từ những xung khắc ban đầu hoàn toàn chỉ là những vấn đề liên quan đến niềm tin tôn giáo và những cáo buộc về tôn giáo tại dinh Caipha, thì sáng hôm sau, vì nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu, những người Do Thái đã dẫn Chúa Giêsu đến dinh Philatô và bịa ra những vấn đề chính trị xã hội để cáo buộc Ngài, và vu cho Ngài như là một tội phạm chính trị: Tên này đã xúi dân làm loại, đã tự xưng mình là vua, đã ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế La-mã. Bài tường thuật cũng cho thấy, Chúa Giêsu đã trở thành nạn nhân của con người và trở thành trò chơi cho các thế lực và như quả bóng trên sân chính trị của con người. Tất cả những việc làm vì yêu thương của Chúa đối với dân chúng, thì giờ đây lại bị coi như là những thứ để họ đùa cợt, trong khi quan Philatô không tìm ra tội gì nơi Chúa Giêsu thì những người Do Thái lại đòi giết Ngài, Philatô muốn phủi trách nhiệm của mình không chỉ bằng việc rửa tay để cho rằng mình là người vô can, mà ông còn chuyển giao Đức Giêsu cho vua Hêrôđê để khỏi mang trách nhiệm. Vua Hêrôđê, đùa cợt coi thường và còn thách thức Chúa Giêsu làm vài phép lạ để xem cho vui, và khi không được như ý muốn, thì ông cho rằng Chúa Giêsu là một người điên và trả lại cho Hêrôđê. Mặc dù việc làm này cho thấy Chúa Giêsu trở thành như quả bóng bị đá qua đá lại giữa những người có thế lực, như Thánh Luca lại cho thấy, nhờ Chúa Giêsu mà Hêrôđê và Philatô đã trở nên thân thiết với nhau xóa bỏ được sự thù hằn đã lâu. Từ sự căm thù, mà những thượng tế và luật sĩ đã cố tình muốn đưa Đức Giêsu đến cái chết, mặc dù Philatô đã mượn cả Hêrôđê để cho thấy Chúa Giêsu là người vô tội, nhưng các thượng tế và luật sĩ vẫn muốn loại trừ Ngài, và đánh đổi Ngài để lấy một tên trộm cướp giết người tên là Baraba. Cuối cùng Philatô cũng phải chiều theo ý họ, giao Đức Giêsu vào tay họ để họ thỏa mãn cái ác của mình và đem đi đóng đinh. Kế hoạch của người Do Thái đến đây đã thành công, kẻ mà họ muốn loại trừ đã ở trong tay họ, cái ác đã thắng thế và càng ngày càng đi đến tột cùng, họ điên cuồng gào thét, họ hả hê thỏa mãn vì thành công của mình là đã loại trừ được Đức Giêsu bằng việc đóng đinh Ngài vào thập giá và đứng dưới chân thập giá để nhạo cười thách thức Người: nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin. Còn về phía Chúa Giêsu, Ngài đã im lặng và đón nhận tất cả những sự độc ác và gian dối mà con người đang trút xuống trên Ngài, với lòng tin vào quyền năng và sự chiến thắng của sự thiện trên sự ác, của Thiên Chúa trên ma quỷ, của tình yêu thương trên hận thù. Trên cây thập giá khi mà tay chân bị đóng chặt vào cây gỗ, đau đớn đến tột cùng vì sư phản bội của các môn đệ, sự bội bạc tráo trở vô ơn của dân chúng, và sự độc ác dã man của con người, Chúa Giêsu đã hướng về Thiên Chúa Cha để xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho nhân loại cho những người gây ra cái chết cho mình, cho những kẻ đang nhạo cười Người: Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc họ làm. Chính khi ở trên cây thập giá Chúa Giêsu đã làm cho tình yêu thương trổ sinh hoa trái là sự tha thứ, và chính lúc bị treo, bị mọi người từ chối, thì viên sĩ quan người Rôma lại nhận ra kẻ tử tội mà ông vừa mới hành hình là Người Công Chính, là Con Thiên Chúa. Viên sĩ quan này đã tin vì đã chứng kiến từ đầu của bản án và thấy ở nơi Đức Giêsu sự nhân từ và tha thứ, điều mà ông chưa bao giờ thấy ở nơi các tử tội khác. Thưa quý ông bà và anh chị em, Không phải chỉ có người Do Thái ngày xưa họ muốn loại trừ Chúa Giêsu, mà ngày nay thế giới và con người cũng vẫn đang muốn tìm mọi cách để loại trừ Ngài. Trong Tông Thư Cánh cửa Đức tin, Đức Thánh Cha Benedictô cũng cho thấy thế giới ngày hôm nay vẫn đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, ra khỏi thế giới và ra khỏi tâm hồn họ. Con người ngày nay dường như họ sợ Thiên Chúa ngăn cản lối sống buông thả dễ dãi của họ, họ sơ Thiên Chúa đòi họ phải sống nghèo khó thay vì chạy theo lối sống vật chất hưởng thụ, họ sợ Thiên Chúa đòi họ phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy thay vì trả thù trả đũa, cấm vận, và người ta không muốn chấp nhận một Thiên Chúa đòi con người phải từ bỏ phải hy sinh và dám sống theo ngài, chính vì thế mà người ta tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống họ. Không chỉ những người vô thần hoặc thế giới đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa, mà ngay những người mang danh là Kitô hữu, cũng đang xa rời Ngài, vì cho rằng Đức Kitô gây cản trở cho tự do của họ. Chính vì thế, nhiều người tín hữu ngày nay mang danh là Kitô hữu nhưng lại không thực hành niềm tin của mình, không hiểu biết về Thiên Chúa và không yêu mến Ngài, và cũng không có Chuá trong tâm hồn, vì nhiều người đã lười biếng không đón nhận Ngài vào tâm hồn, không muốn để cho lời Ngài hướng dẫn mình, họ sống một đời sống tôn giáo khô khan, không tham dự nghi lễ hoặc chỉ tham dự một cách hời hợi cho qua lần. Chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hôm nay, mỗi người hãy tự đặt cho mình cầu hỏi: tôi có còn tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không và tôi sẽ phải làm gì để tuyên xưng và diễn tả đức tin ấy trong cuộc sống hiện tại của tôi? Cầu chúc cho mọi người có những ngày Tuần Thánh thật sốt sáng, theo sát Đức Giêsu trên con đường yêu thương và dành những phút thinh lặng trong ngày để chiêm ngắm về một tình yêu đến cùng mà Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Amen 24. Cô đơn--Lm. Giuse Tạ Duy TuyềnCó bao giờ bạn cảm thấy cô đơn khi lạc vào chốn đông người, nhưng lại xa lạ, tìm một người quen để chào hỏi, để bắt tay cũng chẳng thấy. Lúc đó có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy trống vắng tận cõi lòng. Đây cũng là ca từ của bài hát “Khi người lớn cô đơn”. Lời hát được viết như sau: Thành phố bé thế thôi Mà tìm hoài chẳng được Tìm hoài sao chẳng thấy nhau giữa chốn đông người Nỗi cô đơn càng dâng cao khi mà giữa phố xá đông người mà chẳng có ai đó của riêng mình để yêu thương, để chăm sóc, quan tâm... Thành phố bé đến thế thôi Mà tìm hoài không thấy Chút ấm áp, chút yêu thương riêng mình. Nỗi cô đơn thật quạnh hiu khi mà ngồi bên ai đó nhưng cũng xa lạ, không tìm được sự thông cảm, sự chia sẻ giữa tình người với nhau. Rồi có những đêm mưa Nằm nghe câu ca rất xưa Từ radio phát lên, nghe thật buồn (buồn lắm) Người lớn cô đơn, tự mình trong bao nghĩ suy Ngồi bên ai sao thấy riêng tôi quạnh hiu!!! Người ta nói cô đơn là cho đi mà không có người nhận, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Tựa như hai bờ sông liền nhau mà vẫn cách biệt. Thấy nhau mà vẫn ngăn sông cách trở nên chẳng qua lại được với nhau. Cô đơn bị ngăn cách không phải bởi không gian mà ngăn cách của cõi lòng. Khi con tim xa nhau thì ngồi bên nhau vẫn như xa lạ. Thế nên, càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Càng gần nhau mà không tìm được sự cảm thông thì nỗi cô đơn càng cay đắng hơn. Có thể nói nỗi cô đơn khi bị chính người mình yêu thờ ơ trước sự thống khổ của ta có khi còn đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn của dửng dưng, của sự bỏ rơi nơi những người ta yêu. Cô đơn có thể đưa tới sợ hãi và tuyệt vọng. Kinh nghiệm đau thương này có thể xẩy ra cho con người trong mọi thời đại, nhất là thế giới hôm nay, một thế giới văn minh có đầy đủ mọi phương tiện để hưởng thụ, nhưng tình con người lại xa cách nhau. Họ ít quan tâm đến nhau. Họ sợ liên đới với nhau. Họ chủ trương “Makeno” cho yên thân. Con người của thời đại văn minh vẫn có thể chết cô đơn trên đống nhung lụa của mình. Đây là lý do mà con số người tự tử ngày một tăng, tỷ lệ nghịch với sự phát triển của văn minh nhân loại. Nhân loại càng văn minh thì càng có lắm kẻ cô đơn.Chúa Giê-su cũng từng nếm trải sự cô đơn giữa những người mình thương. Ngài ở cùng các môn đệ nhưng không tìm được sự ủi an. Một mình vẫn cô đơn trong đêm tối đầy sao! Ngài đã từng ngao ngán nói rằng: “Các con không thức với Ta một giờ sao!”. Ngài cần các môn đệ chia sẻ với Ngài trong đêm tối của sự dữ nhưng các ông vẫn tìm cho mình một cõi đi về trong cơn say của ngủ mê. Nỗi cô đơn ấy đã dâng cao trong nhiều giờ phút cuối đời Ngài khi bị treo lơ lửng giữa trời và đất, làm trò cười cho những người xung quanh. Ngài lại còn cảm thấy như bị chính Chúa Cha bỏ rơi. Ngài đã đi đến tận cùng sự cô đơn của con người. Nhưng chính trong nỗi cô đơn cùng cực ấy mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta thấy một lối thoát giữa cô đơn là sự tín thác vào Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác nơi Cha”. Chính niềm tín thác ấy đã giúp Ngài vượt qua được nỗi cô đơn để bình thản đón nhận cái chết cô đơn. Cuộc đời thật hạnh phúc biết bao nếu cuộc sống mang đến cho ta những người bạn. Những người bạn để có thể đi bên ta trong những khó khăn, cầm tay ta trong những lúc thất bại, và có lẽ cuộc đời sẽ không cô đơn khi mà cuộc sống thật bận rộn nhưng vẫn có người dành cho ta 3 giây chỉ để nói “xin chào” thật thân thương, hay chỉ gửi một tin nhắn 3 chữ “chúc bình an” là đủ ấm lòng những con tim đang lạnh giá! Nhưng nếu cuộc đời có những lúc cô đơn thì đừng bao giờ tuyệt vọng. Hãy theo gương Chúa Giê-su để tín thác mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta ngay cả khi người mẹ có bỏ con thì Chúa vẫn ở bên ta. Ngài có đủ quyền năng để có thể rút ra điều tốt từ điều xấu. Thiên Chúa chính là thành lũy vững chắc nhất cho cuộc đời chúng ta. Xin cho cuộc đời chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng, nhưng luôn tin tưởng, phó thác cậy trông nơi Chúa trong những gian nguy của cuộc đời. Amen. 25. Con người tham sống sợ chết--Lm. Giuse Tạ Duy TuyềnChuyện kể rằng: Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục". Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè. Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh". Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống". Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những người thề sống chết cho nhau nhưng khi đối diện với cái chết, họ cũng tìm trăm ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Thế nên, là người thường dễ quên lời hứa, dễ thất hứa, thất tín và thất trung. Con người thường dễ mất uy tín khi những lời mình nói mà không làm. Thực tế, con người chỉ dễ dàng hứa trong lời nói xuông mà rất khó thực hiện những lời đã hứa. Nhất là khi phải hy sinh tiền bạc, thời giờ, công sức, và càng khó hơn khi phải hy sinh tính mạng mình để thực thi chữ tín trong cuộc sống. Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau. Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử, nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà bỏ quên lời hứa với nhân dân. Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy. Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy, Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn thân cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì “yêu cho đến cùng”. Chúa Giêsu Ngài biết những kẻ mà Ngài thi ân sẽ quay lưng chống lại Ngài. Ngài cũng biết rõ các đồ đệ sẽ bỏ rơi Ngài trong lúc nguy nan. Ngài cũng biết số đông theo Ngài sẽ dừng lại để một mình Ngài vác thập giá cô đơn trên đường lên Núi Sọ. Thế nhưng, Ngài vẫn can trường, vẫn bước đi cho đến cùng của tình yêu tự hiến hy sinh. Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với đàn hát, với trải lá lót đường...; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa Giêsu luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”. Vâng, Chúa Giêsu Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng “Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu. Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Người, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng điều quan yếu là chúng ta hãy luôn nhận ra tình yêu của Chúa để biết tri ân tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta. Amen 26. Đau khổ và sự sống--Lm Bùi Quang TuấnSau bao nhiêu công phu trên động vật, các nhà sinh vật học cho biết: một con cá sấu có thể sống được 250 năm; con quạ hay con két có thể sống được 200 năm; cá chép thọ được 100 năm, riêng loài rùa, 100 tuổi vẫn còn rất xuân vì chúng có thể sống được đến 300 năm. Tôi tự hỏi: những con vật chẳng đáng giá là bao mà sao được hưởng đời lâu thế, đang khi con người là loài cao quí mà sự sống nơi dương gian lại không bằng một góc các con vật kia vậy? Đành rằng cũng có người sống được đến tuổi 100, nhưng con số đó đâu có nhiều. Cộng đi tính lại, người ta có được bản thống kê: năm 1900 tuổi thọ trung bình của nhân loại là 49; năm mươi năm sau, tuổi trung bình là 67; đến năm 2000 thì cao hơn 70 một chút. Cuộc đời kéo dài 60,70 năm nhưng có phải tất cả đều được an lành vui sướng hết chăng? Những tháng ngày mình sống đều là những mùa xuân tươi thắm, hay vừa vào xuân đã thấy thu, mới được thanh bình đã gặp khổ đau? Không ít người cảm thấy đời người sao có quá nhiều bất hạnh, tiếng khóc dường như nhiều hơn tiếng cười, khổ đau tràn đầy hơn niềm vui. Thế rồi phản kháng nảy sinh. Không chỉ nơi kẻ vô thần, nhưng còn từ những người tin nhận có Thượng đế. Không ít người uất ức đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa không loại trừ sự dữ và khổ đau? Phải chăng Ngài bất lực? Trước những đau khổ và mất mát, một câu trả lời triết lý thế nào đi nữa cũng khó xoa dịu lòng người. Chi bằng cứ nhìn vào khổ đau và cái chết của một con người có tên Giêsu hầu tìm gặp một sự cảm thông chia sẻ, hơn là một sự tránh né hay phản kháng. Doãn qua cuộc đời Chúa Giêsu, tôi thấy Ngài cũng từng trải qua một cuộc vượt biên gian nan và vĩ đại. Vượt từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình, từ cao sang tột đỉnh qua nghèo hèn cùng đinh, từ Nước Trời vào nước Palestine. Ngài vượt biên không phải để tìm tự do, hạnh phúc, hay sự sống, nhưng đúng hơn, là để trao ban tự do, hạnh phúc và sự sống phong phú cho con người. Để làm nên chuyện đó, Ngài đã phải đánh đổi tự do và cả sự sống rất xuân của mình. Đức Giêsu chấp nhận cái chết để mầm sống được nảy sinh. Nhưng cái chết của Ngài đâu có oai phong hay yên lành cho cam. Trái lại đó là một cái chết đầy tính bạo động, đau đớn, đơn côi, và quằn quại trên thập giá với những vết thương sâu hoắm hận thù. Ngay trong chính khổ đau tận cùng của Đức Giêsu trên thập giá lại bừng lên chân lý sống của Tin Mừng: "Ai mất sự sống vì Ta thì sẽ sống." Điểm then chốt trong chân lý này không phải là "mất sự sống," bởi vì ai lại không bị mất sự sống. Và sự mất mát đó đâu phải chỉ thuần túy xảy đến trong giờ chết, nhưng còn ngay trong giờ sống hàng ngày của con người. Mỗi ngày sống là một ngày chết. Người ta đang mất sự sống từng giờ, từng phút, từng giây. Thế nên "mất sự sống" là điều không thể tránh khỏi. Đau khổ vì phải chết hàng ngày là điều tất nhiên. Thế nhưng, trong sự tất nhiên và không tránh khỏi đó vẫn ánh lên một niềm hy vọng: tìm gặp sự sống mới, không phải chỉ kéo dài 60,70 năm, nhưng là vĩnh hằng trong Đức Kitô. Hy vọng đó được kết tinh khi con người chấp nhận "mất sự sống" hàng ngày trong tâm tình phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Đây chính là bài học diệu kỳ nơi thập giá: ngay lúc sắp chết, với những hơi thở thoi thóp, cùng những cơn co giật nhức buốt, vậy mà Đức Giêsu đã thốt lên: "Lạy Cha, Con phó thác mạng sống con trong tay Cha." Sự sống gần như tắt ngấm, đau khổ đã tiến đến đỉnh cao, cuộc đời của con người như thế thì còn gì nữa! Vậy mà vẫn còn đó một tâm tình tín thác, gắn bó trọn vẹn với Thiên Chúa. Phải chăng từ khởi điểm của sự phó thác này mà mầm phục sinh hay sự sống mới đã bắt đầu thành hình, và như thế, u sầu tang thương không còn sức mạnh thống trị, nhưng bắt đầu nhường chỗ cho niềm vui phục sinh lên ngôi? Khi không thể tránh khỏi đau khổ và mất mát sự sống mỗi ngày thì sự bình an sâu thẳm và mầm Phục sinh vinh quang chỉ có thể đến được với tâm hồn nếu con người biết sống và chết vì Chúa, với Chúa, trong Chúa. Thế nên, dù đang phải vất vả lăn lộn với bệnh tật, tai ương, khốn khó cuộc sống, hay bao trái ý do tha nhân mang lại, cho dù ngày đời bị pha trộn với bao buồn vui, sướng khổ, thành công, thất bại, hoặc chết chóc chia ly, tôi vẫn quyết giữ mãi cho mình một niềm cậy trông tín thác vào Thiên Chúa. Chính khi biết đón nhận tất cả trong tin yêu và phó thác vào Đấng đã từng gánh vác, chia sẻ, để thánh hóa khổ đau, nước mắt con người, tôi sẽ tìm thấy ý nghĩa của sự sống trong những cái chết đang xảy ra. 27. Cùng theo Chúa--Lm. Nguyễn NguyênVới Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu bằng việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao cành lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ giống một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc đời Chúa Giêsu. Thật vậy, khi cho chúng ta nghe lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu, không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa một vòng quanh nhà thờ hay trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng theo Chúa khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều. Tin mừng cho thấy không một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Bước vào tuần thánh, người tín hữu kytô chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Kytô trên con đường thập giá. Những nẻo đường không phải lúc nào cũng thuận lợi, êm ái. Vì luôn có đó những thánh giá - đời cũng như đạo. Đúng như vậy, bước đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá hôm nay, cho dù chúng ta không bị đòn vọt, tù tội, không có mão gai, không bị đóng đinh vào tay chân, không bị lưỡi đòng đâm thâu, nhưng cũng không kém phần khốc liệt. Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải đối diện với nỗi đau đớn của sự phản bội, vu khống, bội bạc của những người đang cùng sống với chúng ta. Thậm chí, có khi sự vô ơn, bội bạc đó còn đến bởi những người thân yêu nhất của chúng ta, những người cùng chung chăn chung gối, anh chị em trong một nhà, con cái, bạn bè… Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta đặt vật chất, danh vọng và thú vui là trên hết, còn ta lại chọn Chúa và đặt Chúa làm giá trị cao nhất là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu. Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta chỉ muốn hưởng lạc thú thể xác mà không muốn sinh con, người ta dễ dàng “khóc”, và lớn tiếng kêu gọi “chia sẻ” khi thấy những nạn nhân của sóng thần, thiên tai, nhưng lại cho phép và cổ võ việc giết những con người vô tội, vô phương chống cự, đó là những thai nhi còn nằm trong bụng mẹ, hay những người già yếu, bệnh tật. Còn ta, ta biết cộng tác với Chúa một cách ý thức và trách nhiệm trong việc sinh và giáo dục những con người mới là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô. Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta xem lường gạt và dối trá như đút lót, tham nhũng, hay đơn giản hơn, việc “quay” bài của các em học sinh là điều bình thường, còn ta, ta sống chân thật chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu. Như vậy, bước vào Tuần thương khó, giáo hội mời gọi mỗi chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính - đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rũ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác. Tuy nhiên, để có thể bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, chúng ta phải chấp nhận đi ngược với suy nghĩ, với cách sống của con người hôm nay, và lúc ấy người kitô hữu chúng ta sẽ cảm thấy mình như cô đơn, như đang đứng bên lề của xã hội. Thế nhưng, cho dù vậy, chúng ta cũng không được phép nản lòng, thối chí, bởi vì chúng ta tin rằng, chúng ta không vác thập giá một mình, chúng ta có Đức Giêsu, người Thầy, người bạn, và là Chúa của chúng ta cùng vác với chúng ta. Và nếu chúng ta dám đi trọn con đường thập giá với Ngài, thì chắc chắn, cuối cùng chúng ta cũng sẽ được cùng Ngài hưởng trọn niềm vui của cuộc Phục Sinh vinh hiển. Xin Chúa Giêsu, Đấng đã từng chịu đau khổ thêm sức cho mỗi người chúng ta, để chúng ta cùng chết với Chúa nhờ đó mai sau được cùng Người phục sinh vinh hiển. Amen. 28. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn NghĩaBÀI THƯƠNG KHÓ (Mt 26,14 - 27, 66) Là Kitô hữu Công giáo, vào tuần Thánh thì một trong những chuyện xem ra khá vất vả cho những người có trách nhiệm phục vụ các Lễ nghi Phụng vụ và cả bà con tín hữu tham dự đó là "hát và nghe bài Thương Khó". Những người hát thì vất vả cở nào còn tuỳ khả năng ca hát của họ, còn người nghe thì hầu như phải chịu đựng khá nhiều, nhất là khi nghe các "ca viên không chuyên" ê a, chưa kể đến các yếu tố âm thanh, thời tiết... Chắc hẳn anh chị em bà con lương dân, khác đạo sẽ thấy lạ tai với cụm từ thương khó, một cụm từ không phổ thông. Lần giở các trang tự điển tiếng Việt, tôi không tìm thấy cụm từ ấy. Thế nhưng, hầu như Kitô hữu Công giáo nào khi nghe đến cuộc thương khó, cũng hiểu ngay đó là cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Cụm từ "cuộc thương khó" được dịch bởi từ La ngữ "Passio", mà nguyên nghĩa là chịu đau khổ. Anh ngữ và Pháp ngữ đều dịch là "Passion", cũng một nội hàm. Không hiểu vì sao khởi đi từ nghĩa gốc là "chịu đau khổ" thì từ Passion theo thời gian, có lẽ bắt đầu từ thế kỷ XXII, lại có thêm nghĩa là dục vọng, một dục vọng mãnh liệt vuợt mức bình thường, thành sự đam mê, thành "yêu say đắm". Có mối tương quan gì chăng giữa các nghĩa của từ ngữ này bản thân không được rõ nhưng cũng xin mạo muội chia sẻ đôi tâm tình về cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta, nhân sự gợi ý của hai ngữ nghĩa ấy. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Và vì đam mê, yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu chịu khổ nạn. 1. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Vấn đề là ở đối tượng của sự đam mê hay yêu say đắm. Con người đã theo chước cám dỗ mà hướng chiều sự say mê vào chính bản thân mình. Biết sự lành sự dữ là một ước muốn chính đáng và hợp lý với loài có trí khôn. Tuy nhiên khi lấy bản thân mình, lấy lợi ich của mình để làm thước đo lành dữ thì quả là một sai lầm to lớn. Vì say đắm chính mình nên con người đã đặt danh dự, chức phận, lợi ích của mình lên hàng trên hết. Những gì có lợi cho tôi, làm cho tôi vinh dự, giúp tôi thăng tiến quyền chức đã trở thành điều lành theo quan điểm của tôi. Và như thế sự lành dữ không còn mang tình khách quan, nghĩa là do Thiên Chúa đặt định. Các nhà Kitô học cũng như các chuyên gia Thần học Thánh Kinh đã phân tích các nguyên nhân phía nhân loại gây ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong các nguyên nhân ấy cần phải kể đến tham vọng quyền bính của nhóm Mười Hai mà đặc biệt là của tông đồ Giuđa. Sự thường, đi liền sau quyền bính chính là lợi lộc. Ngoài ra chúng ta cũng cần kể đến tham vọng quyền bính của những người lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Tổng trấn Philatô đã biết rõ: "chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người" (Mt 27,18). Một sự say đắm "quy ngã", nghĩa là hướng về bản thân mình rất dễ dẫn đến những điều tồi tệ cho tha nhân và cho cả bản thân. Quá yêu mình thì người ta sẽ dễ coi thường tha nhân. Quá xem trọng lợi ích của mình thì người ta cũng dễ bị cám dỗ tìm cách hạn chế hay xâm phạm lợi ích của kẻ khác. Để bảo vệ quyền chức của mình người ta cũng dễ sẵn sàng hạ bệ kẻ khác bằng mọi cách thế, kể cả thủ đoạn. 2. Vì yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn. Vừa đặt câu hỏi lại vừa trả lời, tác giả Thánh Vịnh cho ta hay: " Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con ngưòi chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân" (Tv 8,4-7). Ngoài câu trả lời: vì Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4, 8), thì chúng ta không thể trả lời cách đầy đủ cho câu hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người đến thế, nhưng chúng ta lại biết rõ "cái thế này": "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Chúng ta còn thấy sự đắm say này qua việc Con Thiên Chúa làm người đã tự nhận làm con của loài người (Son of Man - Fils de l" Homme). Đó là Đấng mà xưa ngôn sứ Đaniel qua thị kiến đã thấy " ngự giá mây trời mà đến" (Đn 7,13). Sự đắm say của của Chúa Giêsu mang tính "quy tha" nghĩa là hướng về người khác. Là Người Con Một, Người luôn hướng về Chúa Cha bằng sự hiệp thông, mến yêu, vâng phục. Vào trần gian, làm "con của loài người", ý định của Người là "không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28). Tình yêu thì không có biên giới. Đã yêu thì không chấp nhận sự nửa vời. Và có thể nói say đắm là điểm tới của yêu thương. Đã đắm say thì có sự khổ nạn. Vấn đề đặt ra là hướng của sự đắm say là bản thân hay tha nhân. Khi ta say đắm bản thân thì ta sẽ gây đau khổ cho kẻ khác và ta lại huỷ hoại chính bản thân mình. Ngược lại khi ta đắm say tha nhân thì ta sẽ đón nhận khổ đau để tha nhân được cứu sống, được hạnh phúc và chính ta cũng sẽ được sống, triển nở và sống dồi dào. Người ta thường gọi các thánh là những người "điên". Có lẽ chữ "điên" hơi mang dáng vẻ hàm hồ và dễ bị ngộ nhận. Thiết nghĩ nên gọi các Ngài là những vị yêu Chúa, yêu tha nhân cách say đắm. Như thế ngoài những vị đã được Hội Thánh tuyên phong thì đã và đang có đó nhiều vị thánh không tên, những người đang yêu đồng loại cách đắm say. Họ đang dõi bước theo chân Chúa Giêsu, Đấng đã từng phán "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23). Với những vị đó, theo cách nói của thánh Âugustinnô, thì "bài thương khó" dù rằng khó và rất khó nhưng vẫn dễ thương, vì đã được thương rồi. 29. Vào thành để chịu chết--Lm G. Nguyễn Cao LuậtNét bi đát của cuộc khải hoàn Để sửa soạn vào thành, Đức Giêsu sai hai môn đệ đến ngôi làng trước mặt để mượn tạm con lừa. Có lẽ không nơi nào cho thấy sự mâu thuẫn như trong biến cố này: một bên là Thiên Chúa uy quyền, một bên là "tính con người". Cả hai đều thể hiện trong con người Đức Giêsu. Đó là sự pha trộn giữa quyền năng Thiên Chúa và sự lệ thuộc, giữa giàu sang và bần cùng. Và đó cũng là hiệu quả của mầu nhiệm nhập thể. Vì lòng yêu thương con người, Đấng vốn giàu có đã trở nên khó nghèo, để con người được giàu có. Trong cuộc đời, có lần Đức Giêsu đã mượn chiếc thuyền của dân chài làm chôỵ đứng giảng dạy; lần khác Người đã mượn hai cái bánh và năm con cá của cậu bé vô danh để làm phép lạ nuôi cả đám đông; sau này, khi trút hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu còn mượn tạm ngôi mộ để gửi tấm thân trong khi đợi ngày sống lại vinh hiển. Vẫn có những chuyện bi đát như thế trong cuộc đời Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Nhưng chưa hết. Hãy bảo thiếu nữ Xi-on Kìa Đức Vua đến với ngươi khiêm tốn ngổi trên lưng lừa lưng lừa con là con của thú vật chở đồ. (Mt 21,5) Thời đó, các vị hoàng đế thường ngồi trên chiến mã, oai hùng tiến vào thành phố. Ngược lại, ở đây, Đấng khải hoàn khiêm tốn ngổi trên lưng lừa con. Nếu Phi-la-tô có dịp đứng quan sát cảnh này, hẳn ông phải bật cười vì tính cách khôi hài của con người tự xưng là Vua. Con người ấy đang ngổi trên lưng một con vật biểu tượng của sự tự huỷ, tượng trưng cho việc tiến dần đến cái chết. Nếu Đức Giêsu tiến vào thành phố trong tiếng nhạc hùng tráng, trong tư thế của người chiến thắng, chắc sẽ có kẻ nghĩ rằng Người là Đấng giải phóng về mặt chính trị. Trái lại, Đức Giêsu chọn những hoàn cảnh để chứng thực cho lời tuyên bố: "Nước tôi không thuộc về thế gian này". Như thế, chẳng có gì cho thấy vị vua này có thể là đối thủ của Xê-da. Phía sau những lời tung hô Khi Đức Giêsu đến gần thành phố, một "đám rất đông" dân chúng ra đón Người. Trong số đó, không chỉ có những người cư ngụ tại Giêrusalem, nhưng còn có những người từ nơi khác về thủ đô dự lễ, và dĩ nhiên, cả những người Pha-ri-sêu. Trong những lần trước đây, Đức Giêsu luôn ngăn cản lòng nhiệt thành, sự phấn khởi của dân chúng. Người đã lánh mặt khi đám đông hứng khởi, Người tránh tạo nên những quang cảnh náo nhiệt (x. Mt 16,20; Mc 5,43; Mc 9,9; Ga 6,15). Vậy mà, trong khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem, các người Pha-ri-sêu phải thốt lên: "Kìa thiên hạ theo ông ấy hết" (Ga 12,19). Điều này ngược hẳn với thái độ của Đức Giêsu. Trước đây, Người xoa dịu sự hứng khởi của dân chúng, còn bây giờ, Người lại khơi lên. Tại sao vậy? Bởi vì "Thời" đã đến. Lúc này, sẽ đến giờ Người công khai tỏ cho dân chúng biết về uy quyền của Người, và đây là lần cuối cùng. Đức Giêsu biết rõ điều này sẽ đưa Người lên đỉnh Can-vê, đến việc Thăng Thiên và thiết lập vương quốc trên trần gian. Đây là cơ hội cuối cùng để Đức Giêsu đưa ra tiếng nói quyết định và đặt con người trước lựa chọn: hoặc tuyên xưng, hoặc từ khước. Những cái áo được trải trên đường, những ngành ô-liu được phất cao; đám đông vui mừng tung hô: "Hoan hô Thế tử nhà Đa-vít, hoan hô! Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô Chúa ngự chốn cửu trùng" (Mt 21,9). Đức Giêsu là Hoàng tử thuộc dòng dõi Đa-vít. Người là Đấng được sai đến để thực hiện công trình của Thiên Chúa. Hosana, khởi đầu là một lời cầu nguyện, giờ đây trở thành bài ca chiến thắng để đón tiếp Đấng Cứu Tinh. Mặc dù đám dân đang reo hò không hiểu rõ lý do Người được sai đến, họ cũng chẳng hiểu được bình an do Người mang lại, nhưng họ cũng biết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến. Đúng là một cuộc khải hoàn, nhưng Đấng Cứu Thế biết rõ rằng lời tung hô "Hosana" sẽ được đỗi thành "đóng đinh nó đi", và vòng gai sẽ thay cho ngành vạn tuế. Ngày hôm nay, người ta trải áo dưới chân Người, nhưng ngày thứ Sáu tới đây, cả áo của Người họ cũng lột hết. Mặc dù Người là Vua, và dân chúng nhận rằng Người là Ngôn Sứ, là Thầy... nhưng Đức Giêsu biết rõ hoàng cung được dành cho Người chính là đổi Can-vê. * * * Lạy Chúa, dù con có thế nào chăng nữa, cũng xin cho con được tung hô Chúa trong ngày hôm nay. Ngày thứ Sáu, tất cả tội lỗi của con sẽ bị phơi trần, nhưng con biết lòng thương xót của Chúa sẽ ngập tràn trên con: đó là ngày Phục Sinh. Cùng với tất cả mọi người con sẽ reo lên "Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa" Đó là hy vọng, là niềm cậy trông cho suốt cả hành trình tăm tối của con. 30. Lắng nghe cuộc khổ nạn--André SèveChúng ta vừa nghe lại trần thuật về cuộc khổ nạn. Suy niệm về cuộc khổ nạn là cách suy niệm tốt nhất trong tuần thánh để nuôi dưỡng đức tin và tình yêu của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rõ trần thuật kinh khủng này, và mỗi lần nghe chúng ta đều cảm động. Chúa Giêsu đã chịu đau khổ đến thế sao? Nhưng trong niềm thương cảm của chúng ta những câu hỏi cứ len vào, khó mà loại bỏ được. Tại sao Ngài phải chịu đau khổ và phải chết? Những điều đó cứu độ chúng ta như thế nào? Những đau khổ và cái chết cứu độ chúng ta không phải vì đó là những đau khổ và cái chết, mà bởi vì đó là kết cục của một cuộc sống can đảm và yêu thương. Việc Chúa Giêsu đấu tranh để làm cho con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và để thiết lập sự công bằng tình thương thực sự giữa con người với nhau đã làm cho các nhà lãnh đạo tôn giáo và cuối cùng là toàn dân chống lại Ngài. Trên thập giá, Chúa Giêsu cho chúng ta biết yêu thương bằng bất cứ giá nào và yêu thương cho đến cùng có nghĩa là gì. Ngài đã không được sinh ra để chịu đau khổ. Ngài đã được sinh ra để yêu thương và dạy chúng ta yêu thương. Sứ mạng này đã dẫn Ngài đến sự đau khổ, nhưng thập giá không phải là một trường học của sự đau khổ mà là của tình yêu. Chúa Giêsu dạy ta điều gì trong sự khổ nạn của Ngài? Tình yêu của Ngài mạnh mẽ và tự do, và chúng ta không nên ở quá xa Ngài trên con đường này. Đứng trước những lời kêu gọi yêu thương chúng ta để mình bị cô lập quá nhiều do sự kiêu căng và bị tê liệt do sợ hãi, chúng ta trở nên điếc và mù vì chúng ta chỉ nghĩ đến chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu có thể nghe tất cả những lời kêu gọi bởi vì Ngài không bao giờ quan tâm đến lợi ích của chính mình. Ngài không bao giờ lùi bước trước khó khăn, trước sự không hiểu, trước đe dọa nào khi yêu. Ngài đã thấy sự ghen ghét nổi lên và Ngài vẫn tiếp tục tiến bước. Làm sao chúng ta không xấu hổ về những né tránh của chúng ta được? Trên thập giá, Ngài đã nói rằng khả năng lớn nhất của con người đó là có thể yêu thương. Nếu chúng ta quen thuộc với những khó khăn trong việc yêu thương (và những vui mừng nữa!) thì chúng ta lại ít biết đến khả năng sống còn của tình yêu. Trong cái chết của Chúa Giêsu, khả năng này lớn đến nỗi nó sẽ bùng nổ thành sự sống lại. Nó mở ra một thế giới mới trong đó điều kỳ diệu sẽ xảy ra mỗi lần có một người muốn và có khả năng yêu như Chúa Kitô. Người ta không suy nghĩ rốt ráo đến những gì cuộc Khổ nạn đã có khả năng và sẽ có khả năng thực hiện. Người ta quá trì trệ trong những suy niệm thống khổ trong khi phân tích tỉ mỉ những đau khổ của Chúa Giêsu cho đến cùng thay vì phải thấm nhuần tình yêu và lòng can đảm của Ngài. Đây không phải là nơi than vãn về Chúa Giêsu cũng như về chúng ta, đây là nơi kêu gọi lòng anh dũng và sự sáng suốt: đó là cái giá tình yêu phải trả, nhưng trong những đau khổ này tình yêu giải phóng biết bao khả năng sinh tồn! Còn lại việc xem sự sáng suốt của chúng ta phát hiện ra điều gì. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trên thập giá sẽ vô ích nếu việc gặp gỡ đó không mang lại kinh nghiệm đức tin nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta tin rằng những đau khổ của Ngài đã mang lại cho chúng ta khả năng sống trọn vẹn, thì chúng ta hãy đi đến thập giá bày tỏ một sự bất lực của chúng ta, để có được một sự chiến thắng. “Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Ngài chẳng vô ích chút nào”. 31. Tôi không bán Chúa--PM. Cao Huy HoàngCho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người tự cho mình là vô can trong vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập tự giá. Trong số đó, có thể có tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình là Kitô hữu, hoặc hơn thế nữa, những người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành tráng, cờ hoa rực rỡ, đón rước linh đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”. Hai mặt thiện ác trong mỗi con người tưởng như là luôn lẫn tránh nhau, đối nghịch nhau, thì lại song hành cách đồng thuận trong tâm hồn khi con người bị thần dữ thống trị. Thần dữ Satan có phép biến những gì mà một người cho là chân lý, thành công cụ phục vụ cho mưu đồ gian ác của chúng, khi người ấy nhận tất cả về mình những gì mình có: học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất là đức tin. Đó là trường hợp của những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ rằng đức tin của họ là do sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có được. Đối với họ, đức tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi cái tôi chủ quan và mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn chưa chịu nhường chỗ cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận thấp bé mà cứ tưởng cao siêu của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu Thế có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan hô Chúa Giêsu, nhưng ngày mai họ đả đảo dẫn tới cái chết của Con Thiên chúa. Có thể chúng ta đã lên án họ, rằng chính họ chủ mưu trong vụ án Đức Giêsu vô tội bị lãnh án tử hình nhục nhã nhất lịch sử nhân loại. Còn chúng ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi, mỗi chúng ta, có thể còn kinh khủng hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày nay đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc hoan hô theo cách đả đảo ngay chính trong cách thể hiện niềm tin của mình. Quả thật, chúng ta đã từng có suy nghĩ rằng: tôi không tố cáo kết án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa Giêsu, không nộp Ngài cho thế quyền, không đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài, không đội mão gai cho Ngài, không quất vào ngài khi Ngài té ngã, không đóng đinh Ngài…Chính người Do Thái đã làm tất cả những điều tệ hại ấy, và ấy là chuyện đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi vô can. Nếu nghĩ như thế, thì việc cùng đoàn người rước Chúa Giêsu vào thành thánh cách long trọng với lời tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang thương khó đẫm máu của Chúa Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho đời sống đức tin của chúng ta cả. Phụng Vụ dẫn chúng ta vào tuần thương khó của Đức Giêsu, để chúng ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức Giêsu đi đường thương khó hai ngàn năm trước mà Ngài còn đang đi đường thương khó ngay hôm nay, ngay lúc nầy…. Bao lâu tôi không chịu thương khó, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn phải chịu thương khó vì phần rỗi của tôi. Bao lâu tôi còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và chịu chết. Bao lâu tôi còn vô tâm không màng đến hay bất cần đến cái chết của Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu tha thiết của Chúa Giêsu từ thánh giá vẫn còn vang lên và vọng xa cho tới tân cõi lòng mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng ta, không thể là những người đứng ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy. Vì thế, không thể nghĩ rằng: tôi không tố cáo Chúa Giêsu, tôi chỉ bất bình với những lời dạy nghe chói tai, những yêu cầu từ bỏ nghe có vẻ bất thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian đang đầy thú vị của tôi. Hoặc, tôi là Kitô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa Giêsu, chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi mà phải nhốt mình trong cái khung chờ chết. Nhớ vào dịp tết, có người nhận được lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của Cesar trả cho Cesar. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội đồng đọc và hỏi: “Nói gì thế?”. Ông hội đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham lam của thế gian, lo trở về với Chúa”. Anh ta lẩm nhẩm: “Thời buổi nầy, không tham sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham nhũng nhan nhãn đầy dẫy kia, ai làm gì được chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh ta vò nát lộc xuân, vất xuống đất, thản nhiên về. Không phải là chúng ta đang tố cáo Chúa Giêsu nói và dạy những điều sai trái đấy sao? Cũng không thể nghĩ rằng: tôi không bán Chúa Giêsu ba mươi đồng bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng, tiền bạc và sức lực của tôi để đổi lấy cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản năng con người, hoặc thiết thực hơn, tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình cảm hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi thành thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa. Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh mục, chưa có nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi… đến lúc có cha ngon lành, có nhà thờ to lớn xinh đẹp rồi, thì việc của cha là sáng chiều làm lễ, việc của giáo dân là sáng ngủ cho đã giấc, chiều xem phim, hát karaoke, nhậu nhoẹt… chẳng màng! Nếu ngày xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng bạc có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của Chúa Giêsu, thì rõ ràng hôm nay, không phải là chúng ta cũng đã từng xem các thực tại chóng qua kia lại có giá trị hơn một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa Giêsu đó sao?! Càng không thể nói rằng tôi không hề bắt Chúa Giêsu phải vác Thánh Giá, không hề đội mão gai cho Ngài, cũng không sỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài… trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng ta đã lún, nghiêng theo chiều bất chính hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống hoang tàn. Vâng, không thể nói: Tôi không hề bắt Chúa Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ nhường phần khó nhọc cho anh em và chọn cho mình phần nhẹ nhàng thong thả. Tôi không hề đánh đập Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ trước những bạo lực của luật rừng đàn áp anh em tôi vô tội. Tôi không hề sỉ nhục Chúa Giêsu, tôi chỉ ngại lên tiếng bênh vực cho công lý, lại còn đồng tình với những lời đàm tiếu rằng anh em tôi dại chi mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức, thiệt thân, còn bị phát lưu, tù đày, hay bị cách ly khống chế. Tôi không hề đóng đinh Chúa Giêsu, tôi chỉ làm thinh vô tình trước bao nhiêu cái chết oan uổng của ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ, trước cái chết của những thanh thiếu niên sa đọa vì hút chích, trước những cái chết của những thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái chết của những người nghèo khổ không tiền chạy chữa, và trước cả cái chết muôn đời của một tập đoàn không tin, còn chống lại Thiên Chúa, trong khi tôi có thể góp một phần của mình vào công cuộc cấp cứu. Cuộc sống bất chính trong ‘con người tưởng như là công chính’ của mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn rằng chúng ta là những người vừa hoan hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta tiếp diễn vụ án Đức Giêsu ngay hôm nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử Chúa Giêsu theo luật rừng của những con người hoang dã, không phải vì ngu muội do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên Chúa, nhưng ngu muội do kiêu căng, cố tình tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan, tài năng, trí tuệ của mình lớn hơn sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Đức Giêsu vô tội “như con chiên hiền lành” bị đem đi giết để chết thay đoàn chiên có tội, là chúng ta, được cứu sống. Tuần thương khó mời gọi mỗi chúng ta nhận ra mình là can phạm, nếu không nói là chủ mưu, trong vụ án Đức Giêsu bị đóng đinh và chết trên thập giá. Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta thành tâm sám hối tội lỗi để được hưởng ơn khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào đường thương khó của Chúa, vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính – đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rủ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác. Hãy cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng Người phục sinh vinh hiển. Lạy Chúa Giêsu, chúng con không vô can trong vụ án đóng đinh Chúa. Đời sống bất chính của chúng con với biết bao là tội lỗi đã hình thành bản án tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng con biết trân quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối, biết cải thiện đời sống, và biết cùng Ngài vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục Sinh với Ngài. Amen. 32. Con đường Thập Giá--Lm Đam. Trần Quang HiềnĐối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực. Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ. Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ. Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhác, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần. Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa. Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác. Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình. Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực... để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi. Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài. 33. Chúa chịu tử nạn trong tôi--Lm. An PhongVào đầu Tuần Thánh năm 1997, nhà văn Adolto Eskivei, người Ac-hen-ti-na bị cảnh sát bắt giam vì các hoạt động bất bạo động để bênh vực giới nông dân nghèo. Trong 32 ngày liên tiếp, ông bị giam trong một cái ống - một loại củi chật hẹp. Một hôm, ông tìm cách viết được một lá thư cho các người bạn ở Sao Paolo như sau: Các bạn thân mến, tôi không muốn nói với các bạn về nỗi khổ đau, nhưng về niềm hy vọng và về ơn mà Chúa đã ban cho tôi, đó là được chịu khổ đau và sống với những anh chị em là nạn nhân của bất công, sống với những người mà, sau hai ba năm bị giam giữ, họ cũng không biết tại sao họ phải chịu những hình phạt như vậy. Tuy nhiên, mỗi ngày có một ánh sáng chiếu soi các đau khổ này, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi giây phút, trong mọi cử chỉ, Thiên Chúa của tình yêu thương, Đấng tha thứ trên thập giá qua mọi thời đại: "Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm". Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết, đây không phải là một câu chuyện xảy ra ở đâu đó, để người ta kể cho nhau nghe chơi, để bàn tán xì xào hoặc để cảm thương cho Chúa của mình. Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết vì mỗi người chúng ta và trong mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu muốn chia sẻ trọn vẹn những khổ đau, vất vả và cái chết của cuộc sống con người. Những đau khổ, vất vả, sỉ nhục, và cái chết vẫn còn đấy, nhưng nếu chúng ta hiệp thông vào cuộc khổ nạn và cái chết cứu độ của Chúa Giêsu; thì những khổ đau đó không còn có thể đè bẹp con người nữa; thân phận phải chết của con người không còn là điều gì phi lý nữa; những vất vả không còn là gánh nặng xiềng xích con người nữa. Tin vào Chúa, người kitô hữu sẵn sàng chấp nhận khổ đau, vì biết rằng Thiên Chúa đã cùng chia sẻ cuộc đời với mình và đã đánh tan sức mạnh của thần chết bằng tình yêu tha thứ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trở thành người để đến với con người, Chúa đã chịu bao khổ đau để cùng chia sẻ những đau khổ chất chồng của cuộc sống con người Chúa đã chịu chết như bao nhiêu tội nhân, như bao nhiêu bệnh nhân như bao nhiêu người khác đang chết. Và lạy Chúa Giêsu, Ngày hôm nay Chúa lại hiện diện trong tấm bánh nhỏ bé này để đến với con. để chia sẻ gánh nặng của con, để cùng con chết đi hằng ngày vì những khổ đau của con. Con chẳng biết nói gì hơn lời tạ ơn, tạ ơn vì đời con có Chúa.
34. Vào thánh Giêrusalem théo ý Chúa Cha--Lm Fx Nguyễn Hùng OánhChúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem như một vị vua quang lâm đến thăm dân chúng, như một Đức Kytô mà các Tiên tri (ngôn sứ) xưa đã loan báo: - Tiên tri Giacaria nói “Này đây vua ngươi đến với ngươi. Ngài công minh,vinh thắng, khiêm tốn và cỡi trên một con lừa” (Giacaria 9,9). - Dân chúng tung hô: Hosanna, Con Vua David. Tiếng tung hô này phát xuất từ Cựu ước (TV 118, Sáng thế 49, 10-11) mừng con vua David. Như vậy, Chúa Giêsu vào thành và được dân chúng tung hô Ngài là Đấng Kytô, Đấng Cứu Tinh nhân loại, Đấng mà dân Israel đã mong chờ suốt bao nhiêu thế kỷ, mong Ngài đến để giải thoát Israel. Vào thành thánh có những nét tỏ ra Ngài là Vua, là Kytô. Tin Mừng còn nói Ngài đã dùng quyền Kytô để thanh tẩy đền thờ: Ngài dùng dây bện lại thành roi đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ, đúng ý nghĩa “đền thờ là nhà cầu nguyện”. Và sau cùng Ngài đã đưa ý nghĩa đền thờ lên cao nhất, là chính con người của Ngài, nơi dâng lễ vật tôn thờ Chúa Cha. Tại vườn Ghếtsêmani, Chúa Kytô cầu nguyền trong một trạng thai hết sức căng thẳng đến mức ứa máu ra, đúng ra là một cuộc vật lộn với chính bản thân minh để đi đến quyết định: chọn cái chết Người ta dễ dàng nói Chúa Kytô chết vì nhóm Tư tế, Ký lục, Biệt phái ra lệnh bắt Ngài nộp cho quan Philatô kết án, nhưng nội dung cái chết là làm trọn Thánh Ý Chúa Cha, vì những mục đích: 1. Để chứng minh Giáo lý Ngài rao giảng là thật và đến từ Chúa Cha nếu Ngài trốn đi thì chẳng ai tin nữa.Những kẻ chống đối viện cớ sợ chết của Ngài dễ lung lac kẻ đã tin Ngài 2. Ngài chết vì vâng lời Chúa Cha trọn vẹn vì Chúa Cha sai Ngài đến trần gian để rao giảng Chúa Cha, đưa chiên lạc về, sợ chết bỏ đi là trốn tránh nhiệm vụ, là đào ngũ. 3. Để tố cáo tội lỗi loài người hiện diện trong tội lỗi của nhóm âm mưu giết Ngài là tiêu biểu cho tội ác đến nỗi giết Con Thiên Chúa một cách tàn ác man rợ. 4. Để biểu lộ tinh thương của Chúa Cha thương nhân loại trong khi nhân loại còn phản nghịch, chống lại tình thương của Thiên Chúa, bời lẽ không có tinh yêu nào cao quý và mạnh liệt bằng tinh yêu sẵn sàng phó mạng sống mình vì người yêu, người yêu phản bội. Cái chết đó có tác dụng biến đổi lòng người, giúp người ta quay về với Thiên Chúa. Vì cái chết đó vừa cho biết tội lỗi của chúng ta xấu xa, tàn ác tới mức độ ghê sợ, vừa chứng minh Thiên Chúa thương yêu loài người vô cùng. Suy nghĩ sự thương khó của Chúa Kytô, chúng ta hối hận vì tội lỗi ta đã phạm và nhìn lên tình yêu vô cùng của Thiên Chúa Cha do Chúa Con làm người chịu chết trên thập giá, tự nhiên ta xúc động, cái xúc động này rất có ích cho ta vì giúp ta tin tưởng, trông cậy và sám hối. Tiếp đến nhờ sự Phục sinh của Chúa Kytô cho chúng ta một bảo đảm chắc chắn, ta bước sang một đời sống mới, một hy vọng không bao giờ tàn, ta cố gắng theo giáo lý của Chúa Kytô để được sống lại với Chúa Kytô. Khi nhìn đến người khác, ta có một tự hào. Ước gì tự hào trong khiêm tốn nghĩa là không chê trách người ta. Thí dụ chê trách người buôn bán trong đền thờ về tội tục hóa nơi Chúa ngự, chê dân Israel tráo trở: hôm nay hoan hô Chúa ngày mai xin đóng đinh Chúa, chê biệt phái tàn ác, chê Philatô hèn nhát. Lý do là khinh chê dễ rơi vào chủ quan mà không tránh cái xấu mình phải tránh. Thực tế không tránh đời sống cũ của mình thì giống như kẻ cướp chửi người khác ăn cướp của mình đã cướp. Cái chết của Chúa Kytô vẫn tố cáo tội lỗi của chúng ta luôn. Chính ánh sáng của Lời Chúa, việc làm của Chúa soi sáng đời sống ta vừa tố cáo tội lỗi chúng ta vừa mở tay đón người tội lỗi trở lại. Chúa luôn luôn mong con người có tội trở lại và ta phải thành tâm thưa với Chúa rẳng trong đó có con. Hễ bao nhiêu lần người ta sống trong tội lỗi là bấy nhiêu lần người ta giết Chúa trong khi ta vẫn nói người Do thái giết Chúa!? 35. Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta--Phanxicô Xavie Trần Đức TuânHôm nay cùng với Giáo hội chúng ta bắt đầu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ, là tuần lễ ghi lại các biến cố cuối cùng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế ở trần gian. Từ lúc Chúa vào thành Giêrusalem hôm nay, đến cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Tuần thánh cũng nhắc cho mỗi người chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối, mỏng dòn, bất toàn, yếu hèn và tội lỗi của mình. Trong cuộc sống của con người, có lẽ không có gì làm cho chúng ta sợ hãi cho bằng cái chết. Cái chết là con đường chung cho mọi người. Không ai có thể chạy trốn khỏi cái chết. Tuy nhiên, khi đối diện với cái chết, mỗi người có một thái độ khác nhau. Các thánh tử đạo đã can đảm đối diện với cái chết để làm chứng cho Chúa. Và đặc biệt cái chết của Đức Giêsu. Có thể nói đây là cái chết tuyệt vời, cái chết đem lại sự hoà giải, sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho mỗi người chúng ta. Chúa đã chết để mang lại cho chúng ta sự sống đời đời. Trên hết, cái chết của Đức Giêsu là một cái chết tự nguyện hiến thân cho người mình yêu. Trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy buồn rầu, xao xuyến, “và mồi hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). Giữa nỗi kinh hoàng, khủng khiếp của con đường thập giá, Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha cho mình: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này" (Mt 26,39). Nhưng cuối cùng tình yêu đã chiến thắng. Với một tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Cha và một lòng thương xót vô biên dành cho chúng ta: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”. Như thánh Phaolô tông nói: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Đức Giêsu, ngay giữa những đau khổ cùng cực nhất trên thập giá, trong hơi thở cuối cùng đã lên tiếng cầu xin cho chính những kẻ vừa hành hạ, đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Đôi khi chúng ta cũng đã đóng đinh Chúa vào thập giá, đó là những lúc chúng ta lơ là trong bổn phận, làm ngơ trước những nghèo khó đơn côi. Tình yêu của Đức Giêsu còn thể hiện qua ánh mắt đầy thương xót Ngài dành cho Phêrô. Dù Chúa biết là ông sẽ chối Ngài. Một tình yêu hoàn toàn vị tha, quên cả nỗi đau khổ của mình đang gánh chịu, để luôn dành trọn tâm trí của mình cho người khác. Đó là tình yêu của Đức Giêsu đã dành cho mỗi người chúng ta. Vì yêu, Chúa đã chịu người đời phỉ báng chê cười. Vì yêu, Chúa đã trở nên nghèo khó để chúng ta được giàu có. Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Vì yêu Chúa đã chịu khổ nạn và chết trên thập giá, xin cho chúng con cũng biết chết đi cho con người tội lỗi, chết đi cho những đam mê, hận thù, ghen ghét để chúng con chỉ biết sống cho Chúa và cho tha nhân. Lạy Chúa, vì yêu Chúa đã tự hiến mình trong bí tích Thánh Thể để nuôi sống chúng con, xin cho chúng con luôn biết khao khát và chạy đến với Thánh Thể Chúa, để chúng con tìm được nguồn sức mạnh và vững bước trên đường về quê trời. Amen. 36. Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa--Lm. Phạm Đức TrịCảnh tượng dân thành Giêrusalem tưng bừng tay cầm cành lá hân hoan đón Chúa Giêsu vào thành Thánh như một vị Vua, được Tin Mừng kể lại hôm nay thật kỳ lạ làm cho chúng ta khó hiểu và đặt câu hỏi: Đức Giêsu vốn là một người hiền lành và khiêm nhường, Ngài luôn né tránh những lời tôn phong của dân chúng... Thế mà hôm nay chính Ngài đã khơi dậy sự hứng khởi trong dân để đón Ngài, dù họ chỉ dùng những phương tiện rất đơn sơ, điều này có ý nghĩa gì? Đức Giêsu, Ngài vào thành Thánh dự lễ Vượt Qua lần cuối cùng của cuộc đời trần thế, hôm nay Ngài muốn loan báo cho dân chúng biết từ nay Ngài cũng đang bắt đầu chuẩn bị một lễ Vượt Qua Mới. Lễ Vượt Qua đó chính ông Vua đang được dân tuyên xưng loan báo: cuộc khổ nạn, con đường Thập giá và cái chết vì yêu nhân loại. Ông Vua đó lại khác hẳn với các vua trần thế. Ngài là Vua hòa bình, Vua bác ái, Vua yêu thương. Một ông Vua tự hiến mình trên thập giá để cứu nhân loại. Còn hơn thế nữa, khi đã bị đóng đinh trên thập giá, vẫn bị người ta nhạo báng mỉa mai: "Nếu ông là Vua dân Do thái, tại sao không cứu mình đi?" Ngài vẫn thinh lặng và tha thứ, không một lời oán trách.. Phía trên đầu Người có bản bản án viết "Đây là Vua dân Do thái". Nhưng Ngài là Vua thế nào? Sự thinh lặng và tha thứ trên Thập giá của Ngài đã cho chúng ta biết: Ngài là Vua không phải dựa trên luật sức mạnh, hờn oán và trả đũa... nhưng Ngài là Vua bác ái, Vua tình thương, Vua Tâm hồn. Với Ngài, mọi người sẽ được yêu thương và tôn trọng, không phải vì địa vị, danh giá, giầu sang, quyền thế, nhân đức hay bất cứ đặc điểm nào khác, mà chỉ vì mỗi người chỉ có một nhân vị đáng được yêu thương, một phẩm giá cao quí đáng được tôn trọng, nhân vị đó chính là, tất cả chúng ta đều là những người con đáng yêu của Thiên Chúa. Ngài ưa chuộng những tâm hồn đơn sơ và khiêm tốn, những con người tội lỗi biết hối cải và ăn năn, như anh trộm lành: "Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng". Phải chăng đó là con đường, đó là những nhân đức mà Ngài đang mời gọi chúng ta chuẩn bị trong Tuần Thánh để đón ngày trọng đại, ngày Lễ Vượt Qua Mới? Vậy hãy noi gương Ngài Trên thập giá. Vì trên Thập Giá, chúng ta tìm ra được bí quyết tình yêu, con đường phục vụ, nhân đức khiêm nhường. Trên Thập giá, con người được Thiên Chúa thần-thánh-hóa và nâng lên ngang hàng với Ngài. Trên Thập giá, mọi người sẽ được yêu thương ngang hàng với nhau, vì chính Chúa Giêsu đã hiến cả Cuộc sống của Ngài cho cuộc sống chúng ta, nghĩa là Ngài đã coi cuộc sống chúng ta ngang bằng với cuộc sống của Ngài. Không gì hòa lẫn chúng ta với Thiên Chúa hơn được nữa, không gì làm cho chúng ta xúc động hơn được bằng sự nhuộm máu đào vì yêu chúng ta trên Thập giá, một công cuộc tình kỳ diệu. Thật thế, trước mắt Thiên Chúa chúng ta là thế đó, trước mắt Ngài con người có gia trị như vậy đó: con người được Thần-thánh-hóa. Có lẽ không thể nào ca ngợi giá trị cuộc sống nhân loại một cách tuyệt vời hơn! Chỉ có thể biểu lộ tính cách vô song của cuộc sống phiêu liêu và tội lỗi của con người bằng cách thiết lập nên phương trình cứu độ của cuộc sống Thiên Chúa với cuộc sống của chúng ta. Điều Ngài làm không phải la vì công lao hay công trạng của chúng ta, cũng càng không phải là sự phục tùng, sự chinh phục hay sự lệ thuộc của Ngài vào chúng ta; điều Ngài muốn chính là sự tự do và hạnh phúc của con cái Thiên Chúa; điều Ngài muốn đó là chúng ta được quan hệ mật thiết với Ngài và Ngài cũng được quan hệ mật thiết với chúng ta. Vậy nhìn lên Thánh giá, chúng ta thấy Thiên Chúa là một Thiên Chúa muốn được hiệp thông, một Thiên Chúa chỉ hiện hữu dưới hình thức ân ban quảng đại. 37. Suy niệm của Lm. Phêrô Võ Thanh NhànBản văn quá dài. Chúng ta không còn muốn nghe thêm gì nữa, chỉ muốn được yên lặng để tưởng niệm mầu nhiệm Chúa chịu chết. Nhưng việc tưởng niệm này sẽ ít có kết quả nếu không được hướng dẫn. Và nếu thiếu hướng dẫn, bản văn dài mà chúng ta vừa nghe đọc có lẽ cũng sẽ không để lại nhiều âm vang sâu sắc. Chúng ta phải nói với nhau về bài tường thuật việc Chúa chịu chết; chúng ta phải nhận ra ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta trong Thánh lễ Chúa nhật Thương khó hôm nay. 1. Bài tường thuật việc Chúa chịu chết Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại việc Chúa chịu chết. Điều đó không có gì lạ. Vì, việc ấy "ai đã đến Yêrusalem" mà không biết? (Lc 24,18). Rồi các Tông đồ phải là "những chứng nhân về việc Chúa sống lại", cho nên việc dài dòng tỉ mỉ kể về sự kiện Chúa chịu chết; và dài dòng tỉ mỉ hơn nữa khi các ông giảng về việc Chúa phục sinh là chuyện đương nhiên. Sự kiện ấy khiến chúng ta phải khẳng định: không thể coi việc Chúa chịu chết như là chuyện đã biết rồi, không cần nói tới nữa. Trái lại đó là sự kiện phải suy nghĩ mãi mãi. Như thế việc Chúa chịu chết đã không thuộc về dĩ vãng, nhưng luôn luôn được hiện đại hóa vì Chúa chỉ cứu độ chúng ta ngày hôm nay trong sự chết và sống lại của Con Người mà thôi. Tử nạn và Phục sinh không phải chỉ là hai sự kiện kế tiếp nhau: tử nạn qua rồi và hiện nay chúng ta chỉ cần biết Chúa phục sinh. Không, Chúa Phục sinh hiện mang các dấu thánh. Người nhắc nhở chúng ta nhớ đến việc tử nạn, không phải như một giai đoạn bi đát phải trải qua, nhưng như chính con đường loé sáng việc phục sinh. Và như việc phục sinh đã chói sáng trong việc Chúa chịu nạn, thì ơn cứu độ cũng rực lên trong chính cuộc đời đầy phấn đấu của ta. Như thế, suy nghĩ về việc Chúa chịu chết là nhận ra ơn cứu độ ngay trong đời sống nhiều thử thách của mình. Đạo của chúng ta là đạo nhập thể, đạo dạy chúng ta biết sống, nên giáo lý của đạo phải nhấn mạnh đến việc Chúa chịu chết. Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại việc này. Và hơn nữa, cả bốn sách đều giống nhau khi làm công việc này hơn khi viết về những việc khác. Do đó người ta có thể quả quyết: khi thuật lại việc Chúa chịu chết, các tác giả đã trình bày suy nghĩ chung của Hội Thánh hơn là viết ra những ý nghĩ cá nhân của mình. Nhiều người nhìn thấy sự giống nhau ấy đã vội tưởng không có gì phải để ý trong cách thức tường thuật của mỗi sách Tin Mừng. Và họ nghĩ: biết một bài tường thuật là đủ; hơn nữa có thể chọn bất cứ bài nào làm cơ sở rồi thêm những chi tiết của ba bài khác vào. Nhưng làm như vậy là không hiểu gì hết! Chúng ta cứ thử để mỗi tác giả đưa chúng ta đi theo con đường tử nạn của Chúa. Tâm tình của mỗi vị sẽ giúp ta thấy mầu nhiệm Chúa chịu chết thật phong phú vô cùng. Hôm nay chúng ta theo thánh Matthêô. Người mở đầu bài tường thuật bằng việc Giuđa mặc cả với Hội đồng Dothái về số tiền thưởng y muốn được để nộp Đức Kitô cho họ. Tác giả rõ ràng đã hàm ý vụ án sắp diễn ra là một chuyện mua bán, tội lỗi, và bẩn thỉu. Và bẩn thỉu thật, khi cái hôn thay vì yêu thương là dấu hiệu nộp thầy của Giuđa! Còn thái độ của những người khác thế nào? Các Tông đồ muốn chống cự, lấy sức mạnh chống lại sức mạnh. Nhưng Đức Giêsu gạt bỏ lập trường ấy vì là đường lối lẩn quẩn không có lối thoát: kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Người cũng phủ nhận ý kiến của những kẻ muốn xin Thiên Chúa một sự can thiệp lạ lùng, vì là đường lối không cứu được kẻ có tội và do đó không cứu thế. Người nhấn mạnh nhiều lần: hãy để cho lời Kinh Thánh nên trọn; hãy chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa, vì chết chưa phải là hết... Hai chủ đề trên tiếp tục được Matthêô khai triển trong suốt bài tường thuật. Tội lỗi bẩn thỉu của Giuđa và Dothái lại được phơi ra trong câu chuyện Giuđa đem trả 30 đồng bạc. Người Dothái không muốn nhận nhưng rồi cũng phải lấy và đem mua thửa ruộng máu. Rõ ràng bọn chúng đã nhận tội; và một lần nữa rõ ràng việc Đức Giêsu chịu chết đã được viết trong Kinh Thánh, mà Người chấp nhận làm cho nên trọn. Nhưng như trên đã nói, Matthêô luôn suy nghĩ về Giáo hội trong khi viết Tin Mừng. Ở đây cũng vậy, trong bài tường thuật việc Chúa chịu nạn, tác giả đã có nhiều đoạn ám chỉ Giáo hội đặc biệt khi viết lại vụ án trước tòa Philatô. Ông quan ngoại đạo này muốn tha Đức Giêsu. Vợ ông cũng can ông đừng nhúng tay vào vụ người công chính này. Đang khi đó các tư tế lại xúi dân Dothái xin đóng đinh Người họ quen biết và xin tha bổng cho Baraba, một tên tử tội. Đó là hình ảnh về Giáo hội gồm đa số dân ngoại và về cộng đồng Dothái tội lỗi. Hình ảnh ấy còn được Matthêô vẽ lại một lần nữa khi kể chuyện: ở dưới chân Thánh giá, các thượng tế cùng ký lục và hàng niên trưởng chế diễu Chúa (27,41), trong khi viên bách quân và tùy viên của ông là dân ngoại lại kinh hãi mà nói: "Đích thực, Ông này là Con Thiên Chúa" (27,54). Tuy nhiên, nói cho đúng, dân ngoại chỉ được ơn đức tin sau khi Chúa đã chịu chết. Lúc ấy màn trong đền thờ bị xé ra, cho phép mọi người kể cả lương dân được vào. Người Dothái không còn đặc quyền và độc quyền Lời Hứa nữa. Chức tư tế của đạo cũ cũng bị hủy luôn. Thế giới cũ đổ vỡ khi đất động và đá vỡ tung. Đức Giêsu đã cứu thế rồi khi nhiều mộ mở ra và nhiều xác thánh sống lại. Sự chết của Người đã ban đức tin cho viên bách quân, đã tập họp môn đệ và các phụ nữ đạo đức lại, hướng họ về niềm tin phục sinh, đang khi khiến người Dothái lúng túng đặt lính gác mồ một cách vô ích. Như vậy Matthêô đã có cả một lối suy nghĩ độc đáo về việc Chúa chịu chết. Như mọi người đã đến Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua năm đó, ông đã thấy các sự kiện diễn ra. Chính lúc ấy ông chỉ biết ghi nhận. Nhưng khi Đức Giêsu đã phục sinh và đã tập họp các Tông đồ lại, đức tin của ông được củng cố đến đâu thì các việc đã ghi nhận kia cũng tập họp lại đến đó và dính vào nhau làm thành một bài tường thuật dưới ánh sáng của mầu nhiệm Phục sinh. Việc Chúa chịu chết không phải là chuyện tình cờ. Bề ngoài nó có do việc mua bán bẩn thỉu và tính toán gian dối cũng như sai lầm của kỳ mục Dothái. Nhưng bên trong đó là diễn tiến của kế hoạch cứu độ đã được viết trước trong Kinh Thánh để đưa dân ngoại vào Lời Hứa và người Dothái phải trở lại; và để như Lời Đức Giêsu nói trước tòa Dothái, từ nay các ngươi sẽ thấy Con Người, ngự bên hữu Quyền Năng và đến trên mây trời; tức là từ lúc Đức Kitô bị xét xử, người ta sẽ thấy Quyền Năng Thiên Chúa ở với Người và Người cứu độ chúng ta trong vinh quang Thập giá. Chính tội lỗi của loài người làm nổi bật sự vô tội của Người, và chính cái chết trong sự vô tội có giá trị cứu chuộc chúng ta. Do đó sự sống công chính của chúng ta không những đã chảy ra từ các thương tích của Người, mà còn phải được minh chứng và tăng lên qua mọi thử thách đớn đau. 2. Bài học Chúa để lại cho chúng ta Thánh Phaolô không bao giờ viết một bài tường thuật dài về việc Chúa chịu chết. Nhưng bài thư Philip hôm nay có thể thay thế. Thể văn của bài thư cho phép chúng ta có thể nghĩ đây là một ca vãn dùng trong phụng vụ thời thánh Phaolô, nói về mầu nhiệm Chúa Kitô. Và như vậy, đây là bản tuyên xưng đức tin của Giáo hội. Nó không thể khác với bài tường thuật của thánh Matthêô vì chúng ta cũng đã nói, các bài tường thuật về việc Chúa chịu chết trong bốn sách Tin Mừng đều khá giống nhau, nên cũng chỉ diễn tả giáo lý chung của Hội Thánh mà thôi. Đọc các bài tường thuật này, chúng ta phải chia sẻ đức tin của Giáo hội. Thánh giá Đức Kitô nói lên sự vô tội thánh thiện của Người ở giữa những người mà Người đã gọi là anh em nhưng lại thật là độc dữ. Chính cái chết vô tội thánh thiện của Người khiến chúng ta nhận ra Người là Người Tôi Tớ Thiên Chúa gánh tội thiên hạ để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta chỉ tuyên xưng Người chân thật như thế khi tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Người để chấp nhận cuộc đời phấn đấu như là đường lối nên thánh và cứu thế. Isaia ngày trước đã được linh ứng để viết về thân phận Người Tôi Tớ Thiên Chúa, tức là về thân phận Đức Kitô và thân phận mọi Kitô hữu. Mọi người tôi tớ Thiên Chúa phải "sáng sáng, mở tai nghe Lời Chúa như môn sinh; phải có lưỡi trung thành của môn sinh để lấy Lời Chúa chống đỡ kẻ kiệt sức; và cuối cùng phải giơ lưng cho người ta đánh đập, chìa má cho kẻ nhổ râu, trơ trơ như đá trước mọi nhục nhằn khạc nhổ, biết rằng chung cuộc mình sẽ không phải thẹn thuồng...". Isaia thật đã vẽ trước khuôn mặt và đời sống của Đức Kitô. Mọi lời của ông được bài tường thuật của Matthêu làm cho sáng tỏ. Phaolô trong bài thư Philip đã suy nghĩ và thấu hiểu đường lối Thiên Chúa trong cuộc đời của Đức Kitô. Phụng vụ hôm nay dùng cả ba bài đọc này đưa chúng ta vào mầu nhiệm Thánh giá cử hành trên bàn thờ để chúng ta nhận lấy Đức Kitô chịu chết và sống lại, đem theo mình vào đời mà chiếu tỏa ánh sáng phục sinh ngay trong mọi phấn đấu của đời sống, tiếp tục con đường nên thánh và cứu thế của Đức Kitô, xứng đáng với danh hiệu Con Thiên Chúa. 38. Suy niệm về nhân tình thế thái--Lm. Giuse Nguyễn Hữu AnTrong bài thơ “Thói đời”, Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vần thơ lột tả sự tráo trở trong thái độ sống của con người: “Được thời thân thích chen chân đến Thất thế hương lân ngoảnh mặt đi”. Suy niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su càng thấy rõ nhân tình thế thái, thấy sự tráo trở, đổi trắng thay đen của lòng dạ con người. 1. Đám đông dân chúng Dân thành Giê-ru-sa-lem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đa-vít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, Pha-ri-sêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!” Hai thái độ trái ngược nhau của dân chúng: hoan hô và đả đảo, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Đám đông thường nông nổi nhẹ dạ, vô ý thức và do đó vô trách nhiệm. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn: người ta hoan hô, mình hoan hô, người ta đả đảo mình đả đảo, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. 2. Giu-đa It-ca-ri-ốt Trong Ki-tô Giáo, Giu-đa phản bội Thầy là một sự kiện nổi tiếng. Nổi tiếng vì bán Thầy với giá ba mươi đồng bạc (Mt 27, 3). Một môn đệ được tuyển chọn, được huấn luyện, Giu-đa vinh dự thuộc về nhóm 12, được giao trọng trách quản lý. Nhưng lòng tham lam của cải vật chất đã đẩy Giu-đa đến chỗ phản bội. Giu-đa đi gặp các thượng tế và nói: "Tôi sẽ được gì nếu tôi nộp Ngài cho các ông?” Họ đã trả cho hắn ba mươi đồng bạc, và từ đó hắn tìm dịp để nộp Chúa Giê-su cho họ” (Mt 26, 16). Một cuộc buôn bán lớn nhất trong mọi thời đại nhưng chỉ được ba mươi đồng bạc là giá của một nô lệ vào thời đó! Khi giá cả đã thoả thuận, các thượng tế mang ba mươi đồng bạc và đặt vào tay Giu-đa. Tám trăm năm trước, Gia-ca-ri-a đã nói tiên tri: “Nếu các ông thấy là được thì trả công cho tôi; nếu không thì thôi. Và họ đã trả công cho tôi là ba mươi đồng bạc” (Dcr 11, 12). Trong bữa tối vào ngày hôm sau, Chúa Giê-su tỏ ra buồn phiền: “Có người trong các con sắp phản Thầy” (Mt 26, 21). Các môn đệ nhìn nhau và hỏi: “Có phải con không, Thưa Thầy?” Giu-đa cũng hỏi: Thưa Thầy, có phải con không? Chúa trả lời: “Con nói đúng đó!” Giu-đa đi ra, “lúc đó là đêm tối”... Bằng nụ hôn giả dối, Giu-đa chỉ điểm để quân lính bắt Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu (Lc 22, 50). Giu-đa có quyền dự tiệc bê béo, nhưng lại chọn thờ lạy bò vàng. Chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy, lòng Giu-đa đầy hối hận (Mt 27, 3). Tội ác vừa phạm xong, Giu-đa đã thấy chán chường. Hối hận tận đáy thâm sâu của tâm hồn, Giu-đa đem mối sầu ấy đi gởi chỗ không đáng gởi “Giu-đa ném các đồng bạc trả lại vào mặt các thượng tế và nói: Tôi đã phản bội, nộp máu người vô tội". (Mt 27, 4). Trước sự tráo trở của các thượng tế và kỳ lão: “Can chi đến chúng tôi, mặc kệ anh” (Mt 27, 4), Giu-đa ném những đồng bạc đó vào Đền Thờ và ra đi xuống thung lũng Hin-nom, thung lũng đầy kỷ kiệm khủng khiếp của âm ty. Giu-đa bước đi trên đất lạnh cát sỏi, giữa những tảng đá nhọn sắc, những cây cối cong queo gầy guộc như tâm hồn trĩu nặng nỗi đớn đau. Giu-đa cởi dây lưng quăng một đầu dây vào vào một cành cây to, đầu dây kia quàng quanh cổ. Tiếng gió rì rào như thầm nhắc lời mà Giu-đa đã từng nghe: “Hỡi những ai khó nhọc gánh nặng, hãy đến cùng Ta, tâm hồn các con sẽ được bình an”. Than ôi! Giu-đa hối hận vì chính mình nên chọn cái chết để kết liễu lầm lạc. Mặt trời nghiêng bóng tối dần. Ở Si-on, từ hai phía đối diện, có hai cây đi vào lịch sử, một cây ở núi sọ: cây hy vọng, một cây ở Hinmon: cây thất vọng. Trên cây hy vọng, Đấng Chịu Đóng Đinh liên kết đất trời; trên cây thất vọng, người bị treo xa đất xa trời. Hối hận của Giu-đa không đúng nghĩa hối hận. Chán chường tội lỗi không đủ mà cần phải ăn năn thống hối nữa. Tỉnh ngộ và chán chường mới chỉ là bước đầu, cần phải sám hối trở về đón nhận ơn tha thứ, tìm lại sự sống. 3. Giới lãnh đạo Do-thái Vì ghen ghét mà giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái đã chủ mưu trong vụ án giết Chúa Giê-su (Mt 27, 18). Dân chúng mến phục ủng hộ, nhiều người tin vào Chúa Giê-su. Ảnh hưởng của Người ngày càng lớn trên dân chúng. Cuộc xung đột không những về quan niệm tôn giáo mà còn liên quan đến quyền lợi vật chất của giới lãnh đạo nên họ quyết tâm giết Chúa Giê-su. Đạo Do-thái là đạo của đền thờ, đạo của lễ tế. Dịch vụ lễ tế là một dịch vụ quan trọng về phương diện tôn giáo và cả về kinh tế. Hàng tư tế sống nhờ vào lễ tế. Lễ tế của dân, dịch vụ cung cấp những phương tiện lễ tế như bán chiên bò cừu bồ câu hương hoa và cả dịch vụ đổi tiền. Gia đình các tư tế, con dâu con rễ của họ độc quyền khai thác dịch vụ này. Vậy mà Chúa Giê-su lại dám xua đuổi họ không cho buôn bán trong khuôn viên Đền Thờ. Người còn thách thức: “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Theo Gio-an, lời thách thức quyền bính của Chúa Giê-su có ý ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người (Ga 2, 21 – 22). Nhưng giới lãnh đạo hiểu là đền thờ Giê-ru-sa-lem nên họ coi là sự xúc phạm Đền Thờ. Thách thức phá huỷ Đền Thờ, dẹp bỏ những phương tiện của lễ tế, quả thật là tội không thể tha thứ. Vì thế mà họ căm thù và tìm cách giết Người cho bằng được. Những người Pha-ri-sêu sống trong thế giới tách biệt, không chấp nhận dân ngoại, loại trừ người tội lỗi, giữ luật cách máy móc nô lệ. Còn Chúa Giê-su thì sống hoà mình giữa những người tội lỗi, đồng hành, đồng bàn ăn uống với họ, đến với dân ngoại. Người phê bình sự giả hình của người Pha-ri-siêu. Người lại còn không giữ luật ngày Sa-bát, vì đối với Người “Ngày Sa-bát đựoc lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát” (Mt 2, 27). Người còn xưng mình là Con Thiên Chúa (Mt 26, 61; Mc 14, 58). Trước bao nhiêu là “tội trạng” của Chúa Giê-su, Thượng Hội Đồng đã tuyên án. Nhưng họ không còn quyền lên án và xử tử bất cứ ai vì quyền đó thuộc quyền của toà án chính quyền bảo hộ. Vì thế họ phải nộp Chúa Giê-su cho Tổng Trấn Phi-la-tô. Theo Mác-cô và Mát-thêu thì Chúa Giê-su bị thẩm vấn về hai tội danh: một là Người đã xúc phạm đến Đền Thờ khi tuyên bố “Tôi sẽ phá huỷ Đền Thờ này, rồi nội trong ba ngày sẽ xây dựng lại” (Mt 26, 61; Mc 14, 58); hai là tự xưng mình là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa (Mt 26, 63; Mc 14, 61). Trong Tin Mừng theo Lu-ca chỉ thấy nói nói đến tội danh thứ hai (Lc 22, 67). Trong Tin Mừng theo Gio-an nói tới việc thượng tế hỏi Chúa Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người (Ga 18, 19). Họ tài tình khéo léo khi biến tội danh tôn giáo thành tội danh chính trị “Chúng tôi phát giác ra tên này xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là vua nữa” (Lc 23, 2). Tội xúi giục nổi loạn, tội ngăn cản dân nộp thuế cho nhà vua, tội xưng mình là vua. Cả ba tội đều đáng chết, không một chính quyền nào có thể dung tha. Vụ án Chúa Giê-su rõ ràng là vụ án tôn giáo chứ không phải là một vụ án chính trị, mặc dầu hình thức xử tử và tội danh được ghi trên đầu Chúa Giê-su là như thế. Người bị đóng đinh, theo luật Rô-ma và với tội danh là “Vua dân Do-thái” chứ không bị ném đá theo luật Do-thái và với tội danh Con Thiên Chúa. Chủ mưu trong vụ án là dân Do-thái, nhất là những người lãnh đạo của họ, Thượng Hội Đồng. Họ đã thành công, sung sướng mãn nguyện khi dẹp yên một chướng ngại lớn lao. 4. Tổng Trấn Phi-la-tô Vì hèn nhát mà Phi-la-tô đã đổ máu người vô tội. Trách nhiệm chính trong cuộc xét xử đứng về mặt pháp lý là Phi-la-tô, ông ta ý thức rõ điều đó (x. Ga 19, 10). Biết Chúa Giê-su vô tội mà vẫn kết án (x. Ga 18, 38; 19, 4.6). Kẻ đại diện cho công lý lại chà đạp công lý. Phi-la-tô hèn nhát không dám tha vì sợ quần chúng đang cuồng nộ. Lo sợ nguy hiểm cho chức quyền của mình nên chủ trương thà bảo vệ chức quyền hơn bảo vệ công lý. Trước áp lực ghê ghớm của đám đông đang bị hàng tư tế xách động, Phi-la-tô đã chiều theo ý họ để giữ lấy cái ghế Tổng Trấn của mình. Ong đã kết án tử hình cho Chúa Giê-su, trao Người cho dân Do thái điệu lên đồi Gôngôtha để đóng đinh. Phi-la-tô rữa tay phân bua mình vô tội trong vụ án này (Mt 27, 24). 5. Xin được sống yêu thương Suy nghĩ về vài nhân vật, ít sự kiện trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, cũng đủ thấy con người hay thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen dễ như trở bàn tay. Vì tham lam, vì bổng lộc cá nhân, vì lợi lộc đảng phái, vì quyền lợi giai cấp, con người ta không từ một thủ đoạn nào. Có khi còn bán rẻ lương tri để mua một chút vinh hoa trần thế. Giữa Chúa Nhật Lễ Lá và Thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của người tín hữu. Hôm nay hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế. Có thể ngày mai gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh nó vào thập giá. Hôm nay yêu thương, ngày mai oán ghét. Hôm nay hân hoan, ngày mai buồn sầu. Hôm nay hiền hòa, ngày mai hung dữ. Hôm nay tin tưởng, ngày mai hoài nghi. Danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài. Cuộc sống có nhiều tiêu cực hơn tích cực? Con người làm khổ nhau nhiều hơn là làm đẹp lòng nhau? Người ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương? Tôn vinh Chúa ở trong Nhà Thờ nhưng có sống Tin Mừng trong cuộc đời không? Chúa Giê-su bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án cách bất công để cứu nhân loại khỏi án phạt đời đời. Người đã chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội, để cứu độ con người. Người cho chúng ta được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, cho chúng ta “được sống dồi dào”. Con người được dựng nên để sống và sống để yêu Chúa và để yêu nhau. Thiên Chúa là tình yêu nên đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giê-su đã chấp nhận đau thương để đem lại yêu thương cho con người. Người đã biến đổi viên mãn của đau thương thành viên mãn của yêu thương qua cuộc khổ nạn (x. 1 Cr 15, 26. 54; Dt 2, 14), để từ trong cái chết vì tình yêu, sự sống vươn lên tươi đẹp như một mùa lúa mới (Ga 12, 24). Xin Chúa cho chúng con luôn sống yêu thương, biết đem Tin Mừng bình an đi xây dựng cuộc đời. 39. Tình yêu thanh khiết--Lm. Giuse Nguyễn Hữu AnMột trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật lung linh trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét...giữa nét đau khổ của hai tử tội, hận thù của đám đông là dung mạo Đấng Chịu Đóng Đinh hiền hòa chan chứa tình thương. Tuần Thánh bắt đầu từ Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Khổ nạn, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó. Việc cử hành hôm nay với hai nhịp tương phản, mang hai sắc thái nghịch nhau: người Do thái tung hô Chúa Cứu Thế, ngập tràn tiếng reo vui, sau đó họ đòi lên án tử hình Người và cuộc thương khó đầy máu nước mắt. Ôi nhân tình thế thái, sao mau đổi trắng thay đen! Màu đen sự dữ, màu trắng tinh khôi bàng bạc trong bức tranh “ba thập giá” và cuộc thương khó. 1. Sắc đen sự dữ Chìa khóa để đọc tất cả những sự vô lý, bất công, phi đạo đức trong vụ bắt và xét xử Chúa Giêsu là: quyền lực của tối tăm. Bốn sách Tin Mừng đều kể rằng Chúa Giêsu bị bắt ban đêm. Matthêu, Maccô và Gioan kể một đám người mang gươm giáo gậy gộc do các thượng tế, kỳ mục, Pharisêu sai đến. Thánh Luca lại nói có cả các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục ở trong bọn người mang gươm giáo gậy gộc. Trong đêm tối, đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì giới lãnh đạo cao nhất của dân Do thái đã hội họp tại nhà thủ lãnh của họ, sai thuộc hạ đi bắt Chúa Giêsu theo sự hướng dẫn của Giuđa, người môn đệ phản Thầy. Họ ngồi chờ để kết án ngay trong đêm.Phiên họp ban đêm này do chính Caipha, chủ tịch Thuợng Hội Đồng chủ sự. Thánh Matthêu kể: “Các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình” (Mt 26,59). Họ dùng chứng gian vu khống và xuyên tạc chụp mũ để kết án tử hình Đức Giêsu (Mt 26,60-61; Mc 14,59). Trong bộ phim 12 giờ cuối cùng của Chúa Giêsu, nhà đạo diễn đã hoạ lại hình ảnh của đêm tối vườn Cây Dầu. Đó là đêm tối của đức tin và cũng là đêm tối của lòng người. Bộ phim bắt đầu với cảnh Chúa Giêsu đưa các môn đệ lên núi cầu nguyện vào một đêm đen như bao đêm khác.Thế nhưng, đêm nay khác hẳn mọi đêm. Bóng tối của sự dữ phủ kín, bóng đêm của quyền lực Satan bao trùm. Đêm nay, bóng tối của sự dữ hoành hành. Đêm nay, quyền lực của Satan như muốn thống lãnh thế gian. Con người đã toa rập với Satan để giết hại Con Thiên Chúa. Đêm tối vườn Cây Dầu chỉ còn lại một mình Chúa cô đơn. “Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các Thượng tế và nhóm Pharisiêu; họ mang theo đèn đuốc khí giới…” (Ga 18,3). Người ta phải sử dụng đèn, đuốc… chứng tỏ họ đang ở trong bóng tối. Họ sử dụng khí giới tức là tựa vào sức mạnh và quyền lực thế gian. Với những từ ngữ này, Thánh Gioan giới thiệu họ như là biểu tượng của sức mạnh thế gian và quyền lực bóng tối. Giữa bóng đêm của vườn Cây Dầu thấp thoáng những khuôn mặt hung tợn với gươm giáo gậy gộc, xâu xé tấm thân đơn độc của Chúa Giêsu. Bóng tối như tiếp tay cho những hành động lén lút, bắt giữ bất minh. Màn đêm đó cũng che kín lý trí của những người tham dự phiên tòa bóng tối. Tất cả mọi chứng cứ kết án đều nằm trong vòng tròn gian dối. Mọi sự vật lúc này như nhuốm một màu đen đồng lõa cho sự dữ. Màu đen của những tâm hồn đen tối che lấp luôn cả màu đen của bóng đêm âm u. Đây là đêm của hận thù. Đây là giờ của bóng tối. Đây là thời điểm của xấu xa ngự trị. Không ai còn có thể nhận ra được ánh sáng chân lý trong màu đen của ác tâm. Và trong các giờ kế tiếp, bóng tối càng bao trùm. Chúa Giêsu càng lẻ loi cô độc hơn. Kể từ khi Giuđa bước ra khỏi phòng Tiệc Ly thì trời tối đen. Giuđa lẩn vào bóng đêm với đôi tay đen đúa nhận lấy những đồng bạc là giá máu của Thầy mình. Thánh Gioan trình bày, Giuđa rõ ràng thực hiện công việc này dưới tác động của Satan. Khi Giuđa rời phòng Tiệc Ly, “lúc đó, trời đã tối” (Ga 13,30). Trời tối bên ngoài chưa quan trọng. Ở đây, trời tối trong tâm hồn Giuđa. Đối với Gioan, Giuđa trong hành động nộp Chúa Giêsu đã thật sự là hiện thân của quyền lực bóng tối, đối lại với Chúa Giêsu là ánh sáng tinh tuyền. Giuđa khoác lên trái tim màu đen của tội lỗi qua nụ hôn phản bội.Từ đó, bóng tối của sự dữ đã bao trùm lên Thượng Hội Đồng từ Thượng tế Caipha đến các Luật sĩ và Kỳ mục. Bóng tối như đồng lõa và biện minh cho mọi âm mưu thâm độc của những người đại diện cho lề luật. Những mảng đen được tô đậm lên trên bức tranh Tình Yêu Giêsu, không phải bằng những nét vẽ dịu dàng, những nét chấm phá đặc sắc nhưng là những vết màu ngoằn nghèo, vô lối. Tình Yêu Giêsu lúc này đang bị tàn phá theo từng vết đen xấu xa của đám đông. Bóng tối đã làm tất cả mờ ảo trong điên cuồng. Mọi âm mưu đã được trù tính cẩn mật. Mọi lý lẽ độc dữ đã được hoạch định. Mọi hành vi được thực hiện ngay trong bóng tối của thần chết. Cứ thế, từng mảng đen tội lỗi như được dịp trút hẳn xuống Đức Giêsu, như muốn nhuộm đen toàn bộ cuộc đời và tình yêu của Ngài bằng mọi cách và mọi phương tiện. Ngài bị cho là đồ mê ăn uống, là phường tội lỗi. Ngài bị liệt vào hàng trộm cướp, hàng nô lệ cùng đinh. Ngài bị xem là phường gian dối, tiên tri giả. Ngài bị kết án là quân nói lộng ngôn, phạm thượng. Ngài bị xử tử vì bị gán cho việc kích động phản loạn. Đám đông dân chúng, từ những tên đầy tớ mạt hạng đến những bậc vị vọng, từ những người quen biết đến cả khách thập phương không từ chối điều gì để bôi đen con người Đức Giêsu. Ngài đã bị nhúng xuống bùn nhơ của sự khinh miệt, phỉ báng. Ngài đã bị đày đọa tận cùng của kiếp làm người.(x. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin, trang 252-253).Tình Yêu Giêsu đã bị tội lỗi nhân loại nhuộm đen màu tăm tối. Cuộc đời Chúa Giêsu đã bị dã tâm con người hủy hoại trong bóng đêm của sự bêu riếu, sỉ nhục và cái chết trần trụi thương đau. Nào ai có thể tin vào con người tàn tạ như thế! Còn ai có thể trông cậy vào con người yếu đuối bất lực này!!! 2. Sắc trắng thanh khiết Tưởng chừng như bức tranh cuộc đời của Đức Giêsu chỉ là một vệt đen khiếp đảm với những ẩn tình vô lối mà nhân loại áp đặt lên chân dung Ngài. Nhưng thật nhẹ nhàng và linh động, Tình Yêu Giêsu như ngọn bút tài hoa đã gợi mở những nét vẽ thật diễm tuyệt. Tình Yêu sáng lên một màu trắng tinh khôi và mênh mang huyền ảo của trái tim thanh khiết trao ban đến tận cùng. Tình Yêu ấy không mang một chút bợn nhơ của hận thù chia cắt nhưng lóng lánh sắc màu hồng tươi của Tình Yêu phục hồi và giải thoát. Tình Yêu ấy chấp nhận tất, dâng hiến tất cả để xóa đi mặc cảm tội lỗi của con người, cho con người cái nhìn mới của Thần Khí, cái nhìn của Thiên Chúa trong một tổng thể toàn vẹn và đưa con người đến với Tình Yêu sung mãn tuyệt hảo của Thiên Chúa. (x.sđd trang 254-255). Màu đen sắc tối của con người đã được Tình Yêu Giêsu làm cho trắng tinh và trả lại sự trong sáng trong Sự Thật. Ngài đã đáp trả lại tất cả mọi bất công và hận thù bằng lòng bao dung tha thứ. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43). Đức Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Đức Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng. 3. Trắng đen trong lòng người. Tiến bước theo Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người, thấy sự tráo trở thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen của nhân tình thế thái, chúng ta thấy bàng bạc một màu đen của những ý đồ xấu xa, những manh tâm gian ác và những hành vi tội lỗi thấp hèn và thấy sáng lên tình yêu thanh khiết của Đấng Cứu Độ. Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những sắc tối của lòng người. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người công chính, lương thiện lại là nạn nhân của bất công, gian dối và tham lam. Biết bao người đã để cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nổi sẵn sàng chà đạp và lường gạt nhau. Biết bao người vì lòng tham, vì tính ghen tương đố kỵ,vì thói tự mãn kiêu căng vẫn đang tìm cách làm khổ nhau và làm hại đời nhau. Bao lâu lòng người còn chất chưa những ý đồ bất chính, những thủ đoạn lừa lọc, những ích kỷ nhỏ nhen, bấy lâu vẫn còn đó những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ và bị loại trừ. Con người thời nay vẫn nhân danh hạnh phúc của riêng mình để kết án tử cho người khác, nhất là các thai nhi vô tội. Họ giết người vô tội không cần bản án, không cần thẩm phán hay quan toà. Tử tội thai nhi đã bị giết, chỉ vì một bà mẹ không muốn sinh con. Cả xã hội từ ông bà, cha mẹ, họ hàng và các người hành nghề lương y đã sẵn sàng giết chết sự sống của một sinh linh không có khả năng tự vệ. Biết bao cha mẹ đã viện ra nhiều lý do để loại trừ những đứa con của mình cách dửng dưng vô cảm. Điều ác và sự thiện cũng chỉ là sự khác biệt của hành động rút gươm “hãy xỏ gươm vào bao, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52). Khi tất cả mọi lưỡi gươm được cất vào vỏ, sự thiện và thiên đàng đang ở giữa lòng thế giới. Khi thanh gươm được rút khỏi bao, nhân loại đang đắm chìm trong hỏa ngục của chính mình. Con người luôn muốn hành xử tất cả theo lối quyền uy và bạo lực của bóng tối. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dùng một phương cách kỳ lạ để cho con người thấy đâu là sự thật nhân loại cần hướng về. Qua Ngài, những cơn cuồng nộ của sự dữ, những bão táp của nhục hình, những tiếng thét hận thù như bị cuốn vào một lực hút vô hình của Tình Yêu thanh khiết. Sức của của tình yêu nơi Chúa Giêsu đã thâu tóm mọi sự xấu xa độc dữ của nhân loại và hóa giải tất cả để biến nên những giá trị mới của hiền lành, khiêm nhường và khoan dung.(x.sđd trang 258-260). Chúa Giêsu không quỵ lụy, không riên xiết trong cuộc khổ nạn, nhưng Ngài luôn kiên cường và nhẫn nại để mời gọi và mở ra cho nhân loại một cái nhìn về chân lý, về tình yêu, về một Thiên Chúa yêu thương đến cùng. Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền. Ánh Sáng Tình Yêu chính là Ánh Sáng Phục Sinh. Ánh Sáng ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh. Tin và bước theo Chúa Giêsu, chúng ta được tháp nhập vào tình yêu thanh khiết của Ngài, nhờ đó cuộc sống luôn có niềm vui bình an và hạnh phúc. Thánh Gioan đã đi trọn cuộc khổ nạn cùng với Chúa Giêsu và đã viết những lời thật đẹp, thật ý vị về Tình Yêu Chúa Giêsu: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo”. (1Ga 4,10-12). 40. Ba ngã rẽ--Lm Giuse Nguyễn Hữu AnHôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Giêsu Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa. Trước khi bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng, chặt những nhánh cây rải lối để Chúa đi qua. Tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như một vị vua. Chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa Giêsu theo sự xúi giục của giới lãnh đạo tôn giáo. Người đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội. Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Chúa Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành. Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người. Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế? Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông (ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt). 1. Ngã rẽ của đám đông. Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét... Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!! 2. Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình. 3. Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn. Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi. Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71). Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ. Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm. Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa? Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường. Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện ba ngã rẽ của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công…như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng. Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ. Trên con đường khổ giá của Chúa, chúng ta sẽ gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Vượt trên tất cả, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô vô bờ bến của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Ước mong mỗi người có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.
41. Sức mạnh của Thánh Giá--Lm. GB. Nguyễn Minh HùngKể từ sau ngày 11.9.2001, hàng năm, ngày này trở thành ngày giỗ của trên 3.000 nạn nhân bị khủng bố giết hại tại tòa Tháp đôi Trung tâm Thương mại Quốc tế ở New York của Mỹ. Ngày này cả nước Mỹ hướng về biến cố đau thương này, cử hành nghi thức tưởng niệm long trọng vừa như tưởng niệm các nạn nhân, vừa như nhắc nhau nhớ mãi sự kiện lịch sử nhói lòng bởi những bàn tay bất nhân, đêm ngày chỉ biết nhuộm máu đồng loại. Có thể nói, từ ngày đó cho đến nay, người Mỹ giảm thiểu bình an. Dù rằng Mỹ rất mạnh về kinh tế, nỗi bậc về vũ khí và quân sự… dư sức đem quân đi đánh quốc gia của người khác, nhưng tại Mỹ, dân chúng vẫn thắp thỏm, hoang mang, bởi khủng bố có thể đe dọa bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Bạn cứ nghĩ mà xem, con người ta sống mà cứ phải cảnh giác, cảnh giác, cảnh giác… thì bình an ở đâu. Thiếu vắng bình an sẽ là đau khổ, sẽ là sợ hãi, sẽ là tăm tối. Bình an không còn trong lòng người, không còn bảo đảm cho nơi mình phải sống, không còn là cứu cánh cho cuộc đời nhiều gai góc, chắc chắn cuộc sống sẽ khó khăn hơn, lòng người nhiều chao đảo, chới với hơn. Có thể nói, hai tòa tháp đôi ấy là biểu tượng của nền văn minh hiện đại của nhân loại, biểu tượng của sự khôn ngoan, là sức mạnh vững vàng, là niềm kiêu hãnh của con người… Vậy mà chỉ trong nháy mắt, hai tòa tháp khổng lồ biến thành đống gạch vụn, vùi lấp trong lòng nó đến hơn 3.000 sinh mạng cùng biết bao nhiêu của cải khác. Nói với bạn về biến cố 11.9.2001 trong những ngày tuần Thánh, những ngày đặc biệt tưởng nhớ Chúa Kitô Thánh Giá, tôi muốn làm một so sánh, chẳng phải lớn lao gì, nhưng đủ để thấy sức mạnh vạn năng của Tình yêu Thiên Chúa trong những gì tầm thường nhất, nhỏ bé nhất. Cứ ngước nhìn Thánh Giá mà xem, bạn sẽ thấy ở đó một hình tượng thảm khốc: một người chết gục đầu, chết trần trụi, không đủ một tấm áo che thân; thân xác gắn chặt vào những chiếc đinh oan nghiệt; chết tức tưởi, chết ô nhục, thân xác thâm bầm đầy thương tích, lồng ngực mở rộng, trái tim bị đâm thủng, gai nhọn cài nát đầu, chết đơn độc treo giữa trời và đất… Người đó là ai? Là Thiên Chúa làm người. Nhưng tất cả sao chỉ là là đau đớn ê chề. Tưởng chừng chỉ là thất bại? Thánh Giá – đó là phương tiện của tội lỗi, phương tiện của sự chết, người ta dùng nó để giết người, và loài người dùng nó để giết chết Chúa của mình. Bạn cứ nhìn và sẽ thấy, cây Thánh Giá thật là yếu ớt, mong manh, nhỏ bé. Nhưng không: không thất bại! Không yếu ớt! Đối người tin, đó lại là sức mạnh lớn lao của tình yêu, của ơn cứu chuộc. Từ một dụng cụ độc ác, đê hèn, loài người nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu biến nó thành dấu chứng của tình yêu lớn khôn cùng: tình yêu vâng phục đối với Chúa Cha, tình yêu dâng hiến cho nhân loại. Nếu chỉ nhìn bằng ánh mắt phàm trần, so với công trình lớn lao của nhân loại, Thánh Giá có đáng gì đâu. Nhưng sức mạnh của Thánh Giá là sức mạnh ngàn đời. Văn minh của loài người dẫu lớn đến đâu, niềm kiêu hãnh; sự khôn ngoan của họ dẫu mạnh cách mấy; những công trình trần thế dẫu có nguy nga, dẫu được coi là xây dựng vững vàng, nhưng chỉ một hành vi phá hoại mà thôi, tất cả tan biến như bọt biển. Chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô mới muôn đời tồn tại. Hay dẫu thế gian này có qua đi, dẫu cả loài người có tàn hơi, kiệt sức, hay nền khoa học hiện đại này được con người ca tụng là phát triển rực rỡ, một ngày nào đó cũng sẽ là tro bụi. Tất cả chỉ là tạm bợ, là hư nát. Chỉ có Thánh Giá được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới, là cây gỗ duy nhất đáng để chúng ta tôn thờ. Dẫu cho bất kỳ thời đại nào, con người có thù nghịch với Thánh Giá, Thánh Giá vẫn còn đó. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Hội Thánh và lịch sử nhân loại, người ta đã bắt bớ, bách hại Hội Thánh, cố tình đặt mối hận thù với Thánh Giá Chúa Kitô, Thánh Giá không vì thế mà mất đi, Hội Thánh không vì thế mà lụng bại. Trái lại, Thánh Giá vẫn còn đó, muôn đời là dấu chứng của tình yêu, của lòng thương xót vô cùng mà Thiên Chúa dành cho loài người, và Hội Thánh của Chúa Kitô vẫn mãi mãi là dấu chỉ của ơn cứu độ, mà từ nơi Thánh Giá, Thiên Chúa ban cho trần gian. Thánh Phaolô đã đúc kết những suy nghĩ của mình trong những dòng chữ ngắn gọn, nhưng đầy ý nghĩa: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta, là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa…. Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Chúa Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ… Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1, 18- 25). Do những lời trên của thánh Phaolô cho phép ta có quyền nói mạnh rằng: Thiên Chúa đã dùng chính cái mà con người cho là điên rồ, là yếu đuối để lật đổ chính sự không ngoan và mạnh mẽ của họ. Thế mới hay: tất cả chỉ là tạm bợ, còn Thánh Giá Chúa Kitô được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới. Thánh Giá, cây gỗ duy nhất mà muôn đời chúng ta tôn thờ. Dẫu cho thời gian có qua đi, vạn vật có qua đi, thì Thánh Giá vẫn còn mãi như dấu chỉ và sức mạnh của tình yêu mà Thiên Chúa không ngừng yêu thương con người. Ta hãy ngước nhìn Thánh Giá để biết ơn Thiên Chúa, và cảm tạ tình yêu lớn lao của Người. Vì “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 8, 16). Chính tình yêu làm nên ơn cứu độ. Thiên Chúa yêu cho đến mức, ngay chính người Con Duy Nhất của mình, Người cũng chẳng tiếc, để tất cả được trao ban cho ta. Yêu trần gian đến thế, cho nên mọi sáng kiến đều nhằm một mục đích duy nhất là chuộc trần gian về với mình: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 8, 17). Bạn thân mến, để kết thúc những gì bạn và tôi vừa suy niệm, một lần nữa ta hãy ngước nhìn Thánh Giá và học nơi đó bài học của yêu thương và tha thứ, bài học lớn lao của sự chấp nhận và hy sinh – chấp nhận tan biến để mưu cầu lợi ích cho anh chị em và dám hy sinh để biết từ bỏ những gì cản trở ta vươn lên trong việc thực hiện yêu thương. Ngước nhìn Thánh Giá, bạn và tôi còn học nơi đó tất cả lòng khiêm nhu, khó nghèo, vâng phục… Và chính nơi Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được sức mạnh và sự nâng đỡ để tiếp tục vác thập giá đời mình bước đi với Chúa Kitô trên con đường thương khó. 42. Tin tưởng hay thất vọng--Lm Minh NhiênTrong một lần nói chuyện, Đức Tổng giám mục Fulton Sheen chỉ vào thánh giá ngài đang đeo trên ngực rồi nói: "Thánh giá bạc mà tôi đang đeo đây, tôi đeo để đền tạ." Khi hỏi lý do, ngài trả lời: "Một hôm vào thăm một người bạn gốc Do thái bán đồ nữ trang ở Nữu Ước. Ông nói với tôi: "Tôi có một ít thánh giá bạc cho Đức Cha", và ông trao cho tôi một bao đựng khoảng hơn một trăm thánh giá. Tôi hỏi: "Ông kiếm được ở đâu nhiều vậy?" Ông trả lời: "Từ các nữ tu, họ mang đến và nói với tôi: "Chúng tôi không còn đeo tượng thánh giá nữa, vì chính những tượng này đã làm ngăn cách, chia rẽ chúng tôi với thế giới hôm nay. Ông trả cho chúng ta bao nhiêu tiền với số bạc này". Tôi cân và thấy nặng khoảng 30 miếng bạc". Rồi ông nói với tôi: "Tôi nghĩ rằng tượng thánh giá đã là một cái gì biểu hiệu quí giá đối với các Kitô hữu. Phải chăng có gì không ổn, có gì trục trặc với tôn giáo của Đức Cha?" (Through the Year with Fulton Sheen, trg 14-42). Người ta bán tượng thánh giá và cho rằng thánh giá là căn cớ làm cho họ xa lạ với thế giới hôm nay. Giuđa đã bán Chúa và nộp Chúa bằng cái hôn của mình để lấy 30 đồng bạc. Ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay, người ta đã đang bán Chúa với những giá của khác nhau, và với những lý do khác nhau. Ngày hôm xưa Phêrô chối Chúa qua những lời chất vấn của cô đầy tớ gái. Ngày hôm qua một số người đã chối đạo trước những hạch sách đe dọa của quan quyền, và ngày hôm nay với những lý do này hay lý lẽ nọ cũng đã khiến cho có những người chối Đức Kitô, không dám nhận mình là Kitô hữu. Dù cho con người có yếu đuối sa ngã, Thiên Chúa vẫn luôn luôn yêư thương con người. Ánh mắt Chúa đã tìm, đã gặp, và đã cảm hóa được Phêrô, ánh mắt ấy cũng đã đi tìm Giuđa, nhưng không gặp được vì Giuđa thất vọng và lẩn tránh, dầu vậy chuyện kể rằng Chúa vẫn luôn hướng tìm và chờ đợi. Ngày tận thế đã đến, tất cả các thánh đều vui mừng ca hát, nhảy múa, reo hò trong hoan lạc sung sướng. Mọi người đều vui trừ một mình Chúa Giêsu. Ngài đứng yên lặng dưới bóng rợp cạnh cửa thiên đàng. Một vài vị thánh đến hỏi thăm xem Ngài đang làm gì thế. Ngài trả lời: "Cha đang đợi Giuđa". Chắc hẳn trong đời sống nhiều lần chúng ta đã lam phiền lòng Chúa và thái độ của chúng ta có thể phần nào giống như của Phêrô hoặc Giuđa: ăn năn thống hối hay thất vọng buông xuôi. Hôm nay bắt đầu bước vào tuần trọng nhất trong năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta đừng nhẫn tâm xa tránh ánh nhìn đầy ắp yêu đương của Chúa, nhưng hãy thật tình trở về, khiêm nhượng xin ơn tha thứ, và tin cậy vào tình Chúa thương yêu. 43. Con đường tình yêu--Lm Kiều Công TùngNghi thức tuần thánh khởi đầu bằng một cuộc kiệu Lá để tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Một cuộc kiệu tưng bừng tiếng tung hô: "Hoan hô thái tử nhà Đavít! Chúc tụng Vua Israel", nhưng lại nhuốm buồn vì liền ngay sau đó chúng ta được nghe trình thuật về cuộc thương khó của Chúa. Trong suốt Tuần Thánh này, có ba cuộc kiệu như thế. Hai cuộc kiệu còn lại vào chiều thứ Năm tuần thánh - kiệu Mình Thánh Chúa, và Đêm Vọng Phục Sinh - kiệu Nến Phục Sinh. Những cuộc kiệu trong khung cảnh cuộc thương khó vừa mở ra trước mặt chúng ta một con đường, vừa như là một nhắc nhớ: đằng sau buồn thương có niềm vui cứu độ, qua khổ nạn sẽ là Phục Sinh. Đường đưa tới vinh quang Bài thương khó theo thánh Mátthêu đã gợi lên những hình ảnh xem ra hoàn toàn trái ngược với cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem. Thật vậy, việc Chúa được dân chúng tung hô đón rước khi Ngài vào thành thánh chỉ là hình ảnh báo trước vinh quang đích thực Ngài sẽ nhận được khi Chúa Cha cho Ngài sống lại từ cõi chết. Nhưng để được vinh quang ấy, Đức Giêsu phải đi vào con đường khổ nạn, phải tự hiến mình làm hy lễ dâng lên đẹp lòng Cha. Rất nhiều lần chiêm ngắm bức ảnh Chúa hấp hối, chúng ta thấy được gì phía sau hình ảnh một Chúa Giêsu đẹp đẽ uy nghi quì gối bên một phiến đá dưới ánh trăng vàng đầy thơ mộng? Chúng ta có nhận thấy một Đức Kitô đang gập mình xuống đất, oằn oại trong cơn khủng hoảng vượt quá sức mình? Chúng ta có hiểu được lời Ngài thổ lộ với các môn đệ: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được" (Mt 26, 38) và cả tiếng kêu thống thiết trên thập giá: "Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mt 27, 46). Nỗi đắng cay như vây kín và xiết chặt lấy Ngài, đắng cay của người bị bạn mình phản bội, của Thầy bị môn đệ chối từ và bỏ rơi, của Đấng cứu tinh bị dân mình loại trừ. Tất cả đều do sự ích kỷ, lòng kiêu căng và nỗi tham vọng của con người. Thân xác Chúa khổ sầu đến nỗi mồ hôi máu đổ ra và tâm hồn Ngài gần như tan nát không phải vì những roi đòn và nhục mạ, nhưng chính là gánh nặng của tội lỗi nhân loại. "Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta" (Is 53, 4). Qua khổ nạn mới đến Phục Sinh. Đó chính là chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhờ đó Chúa Cha và Chúa Con được tôn vinh. Còn trong thực tế cuộc sống, có nhiều người lại muốn đạt đến vinh quang bằng những con đường ngắn nhất và dễ nhất. Cuối cùng, những gì mà họ có được chỉ là hư ảo, tầm thường nhất và cũng mau qua nhất. Đường nở hoa tình yêu Đức Giêsu chịu chết khổ hình nhằm cứu chuộc nhân loại và cũng để tôn vinh Thiên Chúa Cha. Nhiều khi ta tự hỏi: có cần phải như thế với một Thiên Chúa quyền năng? Hẳn rằng điều làm cho Hiến Lễ Thập Giá của Đức Giêsu trở nên có giá trị và đem lại ơn Cứu Độ không phải là đau khổ hay sự chết, mà là tâm tình vâng phục trong yêu mến đối với Chúa Cha; nhưng chính đau khổ và Thập Giá lại là cách thế diễn tả tâm tình đó thật tuyệt vời. Sự vâng phục yêu mến của Đức Giêsu đã được Isaia báo trước qua hình ảnh người tôi trung: "Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui" (Is 50, 5). Còn thánh Phao-lô đã ca ngợi: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2, 7-8). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu thưa với Chúa Cha trong vườn cây Dầu đã nói lên tất cả sự vâng phục yêu mến: "Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha" (Mt 26, 42). Con Thiên Chúa đâu có lạ gì với những đau khổ của phận người khi bước vào trần gian. Đứng trước con đường khổ nạn, Ngài không hỏi tại sao cũng chẳng buông lời nguyền rủa, nhưng Ngài đã bước đi và đi tới cùng với tất cả tình yêu, tình yêu thật lớn lao dành cho Cha và nhân loại, và lập tức bao nhiêu đau khổ kia trở nên ý nghĩa. Con đường Thập Giá bỗng nở hoa rộn ràng. Cây Thánh Giá đã trở nên lộng lẫy với vương miện tình yêu. Qua đó, Đức Giêsu cũng dạy cho con người một bí quyết để sống hạnh phúc, để có hòa bình: Tình yêu và tha thứ. Như thế, con đường mà Phụng Vụ Tuần Thánh đang mở ra cho chúng ta chẳng phải là "con đường có lá me bay, chiều chiều ta lại cầm tay nhau về", nhưng là con đường đã in dấu chân, đã thấm mồ hôi và đã mang cả trái tim của Thầy Giêsu - Con Đường Thập Giá. Cùng Chúa ta lên đường Lời Chúa hôm nay muốn đưa chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá của Đức Giêsu không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó khăn gì. Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều. Pascal đã nói: "Chúa Giêsu sẽ còn hấp hối đến tận thế". Mỗi năm có hàng triệu thai nhi bị loại khỏi lòng mẹ một cách bất công. Và còn bao nhiêu người đang ở trong điều kiện sống chẳng xứng với phẩm giá của mình. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối giữa thế giới hiện đại. Chúng ta vẫn gặp những Kitô hữu đang bị lo lắng, buồn rầu, ấm ức... dày vò nghiền nát. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối trong nhiệm thể Ngài. Và chính đời sống chúng ta nhiều khi cũng nhuốm phiền muộn, bất an, lo sợ, nghi ngại và xáo trộn. Nếu ta biết đón nhận với lòng khiêm tốn và tình yêu để cứu rỗi thế gian thì trong ta, Đức Kitô cũng đang tiếp tục hấp hối và thân thưa với Chúa Cha rằng: "Xin đừng theo ý con, nhưng xin vâng ý Cha hoàn toàn". Đã hơn 2000 năm rồi, tất cả những gì đã xảy ra dường như vẫn đang còn diễn lại. Chúng ta vẫn đang cùng Đức Giêsu đi vào đời và ở trong đời với lý tưởng cứu thế. Chớ gì lời Đức Giêsu mời gọi: "Hãy vác thập giá mình hằng ngày" (Lc 9, 23) luôn vang vọng bên tai chúng ta mỗi khi phải đối mặt với thử thách hay khi bị lăng nhục nhạo cười... Sau khi đã hiểu thấu ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa, hẳn chúng ta sẽ thấy yêu Thánh Giá của Chúa hơn, và cũng mến Thánh Giá của mình hơn, đồng thời biết kính trọng Thánh Giá của người khác nữa. Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu Thương Khó, có lẽ mỗi người chúng ta đều rất sốt sắng với lời hát: "Ôi bởi con mà Chúa mang thảm hình... Xin giúp con đường thiêng liêng theo lối..." Chớ gì chúng ta luôn có được tâm tình của Đức Giêsu hôm nay, để hân hoan tiến bước vào đời tiếp tục con đường nên Thánh và cứu thế của Ngài, Con Đường Tình Yêu dẫn tới Giêrusalem Thiên Quốc. 44. Hình ảnh người tôi tớ Chúa--Lm. Nguyễn Tiến HuânBài thương khó Chúa Giêsu Kitô chúng ta đọc hôm nay tóm tắt những biến cố từ lúc Người ăn bữa Tiệc Ly từ giã các môn đệ tối thứ Năm cho tới khi Người bị chôn trong mồ chiều thứ Sáu. Quãng thời gian chỉ một ngày một đêm đã dồn dập xẩy ra không biết bao nhiêu đau khổ cho Chúa Giêsu: Bị Giuđa bán đứng: "Giuđa Iscariot đến gặp các Thượng tế và thưa với họ: các ông cho tôi bao nhiêu tiền, tôi sẽ nộp Người cho các ông... Giuđa kẻ phản bội cũng đến thưa Chúa Giêsu rằng: Thưa Thầy có phải con chăng và Người đáp: Đúng như con nói" (Mt 26:14-15,25). Thấy tội lỗi thiên hạ quá nặng nề, Người lo buồn tới hấp hối: "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được..." (c. 38). Người lo buồn sầu não mà các Môn đệ thân yêu chẳng ai yên ủi còn lăn ra ngủ như những kẻ vô tình (c. 40,43). Giuđa dẫn quân lính đến bắt Người còn giả vờ mỉa mai hôn mặt để nộp Người (c47-49). Nguời bị bắt như kẻ trộm cướp: "Các ngươi cầm gậy gộc gươm giáo đi bắt Ta như bắt một tên trộm cướp ư?" (c. 55). Người để cho họ bắt, còn các Môn đệ thì bỏ Người và chạy trốn hết (c 56). Sau đó nộp cho Caipha rồi Philato, bị cáo gian, bị vu khống là nói những lời lộng ngôn "bị chúng nhổ vào mặt, bị đấm đánh, bị tát vả" (c.57-67). Bị chính người Môn đệ lão thành và thân cận nhất là Phêrô chối bỏ 3 lần (c 61-74). Bị coi rẻ hơn là tên tướng cướp Baraba (c.16,20). Bị đánh đòn, bị đội mão gai, bị chế giễu nhạo báng (c. 26,30). Cuối cùng bị vác thánh giá chịu đóng đinh và chịu chết trần truồng trên Thánh Giá giữa hai tên trộm cướp (c. 32-36). Chúa Giêsu đã tự nguyện và yên lặng chịu tất cả những sĩ nhục đau khổ ấy đúng như Tiên tri Isaia đã tiên báo về "Người tôi tớ Chúa": Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đưa má cho kẻ giật râu tôi, đã không che giấu mặt để tránh những lời nhạo cười và phỉ nhổ tôi... tôi trơ mặt chai như đá" (Is 50:5-7). Và đúng như Thánh vịnh 21 diễn tả: "Bao người thấy tôi đều mỉa mai tôi... Đứng quanh tôi là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy tôi. Chân tay tôi chúng đều chọc thủng, tôi có thể đến được mọi đốt xương tôi... Chúng đem y phục của tôi chia nhau còn tấm áo dài thì chúng rút thăm" (Tv 21). Với một kiểu nói khác, thánh Phaolô tóm tắt về Người: "Người đã hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người... đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá " (Pl 2:6-9). Người chết, nhưng không phải là đã hết vì cái chết của Người là chìa khóa mở ra một kỷ nguyên mới của ơn Cứu độ, của sự sống lại và chiến thắng vinh quanh. Người chết đi nhưng ngày thứ 3 Nguời đã sống lại như chính Người đã tuyến bố lúc còn sinh thời: "Ta chết đi nhưng sau ba ngày Ta sẽ sống lại". Sau tất cả những đau khổ và cái chết ô nhục, Người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để khi về Trời, Người được "Thiên Chúa Cha tôn vinh và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên Trời dưới đất và trong địa ngục phải quì gối xuống và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsus Kitô là Chúa" (Pl 2:10-11). "Thiên Chúa tôn Người làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết... Tất cả những ai tin vào Người thì nhờ danh Người mà được Cứu độ" (Tđcv 10:42). Đó là hình ảnh Chúa Giêsu Kitô, Người tôi tớ Chúa mà chúng ta sẽ suy ngắm trong tuần nầy. 45. Chú giải của Noel QuessonCUỘC KHỔ NẠN (Mt 26,14 -27,66) Trong khi viết câu truyện về Cuộc Khổ Nạn, Matthêu trước hết không thực hiện một bài phóng sự, hay một biên niên xử án, về hai mươi bốn giờ sau cùng của Đức Giêsu. Ông thực hiện một giải thích thần học về một biến cố chính yếu. Khi ông biên soạn, thì ông biết rằng người chịu khổ hình thập giá là người được sống lại. Ông nêu ra, trong truyện kể nhiều trích dẫn Kinh Thánh để chứng minh rằng Thiên Chúa hướng dẫn tất cả lịch sử ông không tìm cách làm cho chúng ta xúc động, nhưng làm cho chúng ta thờ phượng: chịu biết bao tủi hổ Đức Giêsu vẫn là Đức Chúa uy nghi và chủ tể là người làm chủ các biến cố. Ngày thứ nhất trong Tuần Bánh không men, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: 'Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?" Người bảo: "Các anh đi vào thành đến nhà một người kia và nói với ông ấy: Thầy nhắn, thời của Thầy đã gần đến. Thầy sẽ đến nhà ông ấy để ăn mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy." Cuộc giáo đầu thật trang trọng. Sự thấy trước thuộc về Thiên tính của Đức Giêsu được nhấn mạnh: "thời giờ của Thầy đã gần" Người biết rằng điều gì đang đến; đó là Lễ Vượt Qua. Cuộc đi qua. Tính vô danh của ngôi nhà này, ngôi nhà của một ai đó, mời chúng ta trở nên "người đó". Đức Giêsu ước ao ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của Người. “Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy" "Có phải con không, Thưa Thầy?" "Chính anh là người đã nói điều đó." Đức Giêsu không phán đoán, không kết án: Chính anh là người đã nói điều đó. Người có tội tự chỉ mình. Đức Kitô chỉ khiến người ta trở về với lương tâm mình. Hai lần khác chúng ta sẽ nghe từ miệng Chúa nói ra câu này: Chính anh là nói đã nói điêu ấy; về chuyện thượng tế (Mt 26,64), và về Philatô (Mt 27,11). Mỗi người phải nhận lấy trách nhiệm của mình. Bạn phải thấy, bạn phải nhận lấy trách nhiệm của mình. Bạn phải thấy, bạn phải quyết định! Điều đó được nhắc lại cho chúng ta. Trong bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: ‘Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy’. Rồi Người lấy chén, dâng lời tạ ơn trao cho môn đệ và nói: ‘Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội’. Thầy bảo cho anh em biết: từ nay Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy. Đức Giêsu hoàn toàn biết Người sắp chết: đó là bữa ăn cuối cùng của Người; ly rượu tình bạn hữu cuối cùng, Người nói: Thầy không còn uống thứ sản phẩm của cây nho này nữa. Thế mà cái chết gần kề này lại không gây nên nơi Người một tình cảm hồi hộp hay sợ hãi nào; Người chúc tụng Cha, cảm tạ. Người “cử hành lễ Thánh Thể", Người cám ơn Cha. Tại sao? Trong khoảnh khắc này, nội dung của lời cảm tạ này là gì? Những tiếng được nhấn mạnh trong câu Đức Giêsu thốt ra cho chúng ta đối tượng của lời khen ngợi này, lời được phát ra từ cõi lòng Người vào giờ phút cô đọng ngoại lệ này, và cũng chính là lời, trong các nghi thức Thánh Thể Chúa nhật, mãi mãi được thực hiện. Đức Giêsu cảm tạ vì Giao ước kỳ diệu giữa Thiên Chúa và loài người; vì sự phong nhiêu trong cái chết của Người sẽ cứu giải nhiều người; vì sự tha tội mà thập giá của người tác động; vì sự hoàn tất của Nước Chúa, một ngày kia, trong ánh sáng của Thiên Chúa, khi sẽ không còn nước mắt, kêu khóc và tang chế. Tiệc Thánh Thể, chính là bữa ăn của những người tội lỗi, chính là sự thứ tha được dành cho mọi người. Đức Giêsu biết rằng tất cả mọi người đều là những tội nhân (tất cả họ sắp bỏ Người trong ít phút nữa, ngay sau lễ hiệp thông đầu tiên của họ). Đức Giêsu biết rằng cộng đoàn Giáo Hội của Người gồm có những đàn ông và đàn bà không trung tín, một tập đoàn những tội nhâ, thực như thế. Các Kitô hữu không phải là những người tốt hơn những người khác, họ chỉ có một cơ may duy nhất, là đến dùng bữa ăn và lễ hiến tế được dâng lên để tha tội, để tha thứ tội lỗi của họ. Hát Thánh Vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. Bằng tình yêu có lẽ chúng ta phải hát Thánh Vịnh, những bài Thánh ca được linh ứng mà chính Đức Giêsu đã hát: chiều tối hôm ấy, tôi nghe thấy tiếng thật hay của Người đang hát; và tôi ngâm nga lập lại những tiếng Ngài đã hát. Giờ lệnh Thánh Vịnh, chính là lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với các ông: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy... Nội đêm nay, gà chưa gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần." Tất cả những ai theo Đức Giêsu đều được thử thách. Thử thách đặc biệt của các môn đệ Đức Giêsu, chính là thử thách về Đức Tin ngã xuống, vấp té trên những đau khổ của Đức Kitô. Chính ông Phêrô, cho dù vai trò của ông và sự vững vàng của ông, không thoát khỏi thử thách này. Đức Giêsu đi cùng với các ông một thửa đất tên là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các môn đệ: “Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện". Rồi Người đưa ông Phêrô và hai người con ông Zêbêđê đi theo. Người cảm thấy buồn rầu xao xuyến. Bấy giờ Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy " Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống đất mà cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha." Cơn hấp hối của Đức Giêsu tại Vườn Ôliu chỉ là lời nguyện lâu dài; theo Thánh Matthêu. Năm lần, người nói lên tiếng: cầu nguyện. Đức Giêsu hấp hối đang lúc cầu nguyện. Đức Giêsu hấp hối trong lúc sống kết hợp mãnh liệt với Cha Người. Nhưng vì thế, Đức Giêsu cũng sống cơn hấp hối với những thân thuộc của Người: ba lần Người trở lại với họ để mời họ cùng cầu nguyện với Người, canh thức với Người (Mt 26,36; 88,40). Khi đó Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai đã đến… cùng với đám đông người mang theo gươm giáo gậy gộc... "Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi"... Anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần. Nhưng như thế thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó mọi sự phải xảy ra như vậy." Và Matthêu đã đan dệt chuyện ông kể bằng những đoạn trưng dẫn Kinh Thánh. Không, cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu không phải là một tai nạn lịch sử bất hạnh. Đó là hoàn tất một dự tính huyền nhiệm của Thiên Chúa, đã được tiên liệu và lưu ý từ lâu. Thiên Chúa không bị bất ngờ bởi thập giá. Chính Người đã muốn và đã quyết định như thế. Người sẽ không phái các cơ binh thiên thần đi, người cũng không cần đến phép lạ. Như thế, làm sao chúng ta có thể nghĩ rằng tất cả mọi chuyện có thể phải diễn ra một cách khác trong cuộc đời chúng ta. Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống những thử thách của chúng con, những bó buộc chúng con, ngõ hầu chúng con tuân phục một cách tự do ý chí nhiệm mầu của Chúa Cha. Đấng không ngừng yêu thương chúng con; không ngừng yêu mến Con của Người trên thập giá; Đấng chịu đau khổ với Người, Đấng Cứu Độ cùng với Người. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà trốn đi hết. Họ bắt Đức Giêsu rồi điệu đến thượng tế Caipha. Các kinh sư và kỳ mục tề tựu sẵn ở đó. Phêrô theo xa xa, và bước vào trong sàn để xem sự việc kết thúc thế nào. Những nhân chứng gian trá cáo giác Đức Giêsu đã nói rằng Người có thể phá huỷ Đền Thờ và xây lại trong ba ngày. Nhưng Đức Giê sư vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Người: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết ông có phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa không?” Đức Giêsu trả lời: "Chính Ngài vừa nói. Hơn nữa tôi nói cho các ông hay: từ nay, ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến..” Vâng đấy vẫn là một câu trích dẫn Kinh Thánh. Người ta trịnh trọng khẩn khoản xin Người đừng nhận căn tính của mình, Đức Giêsu đã dùng một câu trích từ ngôn sứ Đanien (7,13) để trả lời. Người nhận mình là Đấng Mêsia được người ta trông đợi, nhưng Người cũng làm cho người ta cảm thấy rằng Người không phải là Mêsia theo các chuẩn mực của các phán quan về Người: chính trong tư thế của người bị cáo tử hình, mà Người dám tuyên bố rằng từ nay trở đi sự hiện tỏ của người, sự Quang lâm của Người gần đến. Chính khi đó xảy đến việc Phêrô chối Chúa và ông đã sám hối. Rồi đến việc Giua tuyệt vọng; sắp tự treo cổ vì lòng hối hận khi thấy Đức Giêsu bị kết án, và anh thú nhận: "Tôi đã phạm tội giao nộp một người vô tội cho cái chết." Giuđa thật đáng thương! Đức Giêsu có lẽ đã quá tốt với anh, nếu anh đã biết khóc lóc thảm thiết, như Phêrô đáng thương. Huyền nhiệm tự do của con người, có thể tự nhận mình có tội, và đó là một điều trọng đại khi nói được tôi đã phạm tội; nhưng cũng có thể tuyệt vọng, nghĩa là không tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Sau vụ kiện thứ nhất về tôn giáo, trước thượng tế Caipha và Thượng Hội Đồng. Bây giờ là vụ kiện thứ hai, về dân sự, trước viên tổng trấn Roma là Philatô. Khác với các nhà chức trách Do Thái, viên chức ngoại giáo này, đã làm mọi cách để cứu Đức Giêsu: ông ta cố thả Đức Giêsu bằng cách đánh đổi một tù nhân khác, là Baraba. Người vợ của Philatô đến biện hộ với chồng bà để ông ta không nhúng tay vào cái chết này. Sau cùng, Philatô rửa tay, để có ý nói rằng ông ta không chịu trách nhiệm về tội ác (của giới lãnh đạo tôn giáo). Thực sự trong chính cơn tuyệt vọng không làm cho Đức Giêsu miễn tố mà viên tổng trấn cuối cùng phải thuận theo những tiếng kêu gào của đám đông. Trong cuộc Khổ Nạn, chính Đức Giêsu là trung tâm điểm. Dầu vậy cũng cần phải lưu ý về những danh hiệu được người ta đặt cho Người. Bốn mươi lần, người đã được gọi tên Giêsu. Như muốn nói cho chúng ta, vào thời điểm đặc biệt này, ý nghĩa theo nguyên tự của tiếng này (Yeshoua, tiếng Do Thái) và đó cũng là tên mà các thiên thần đã đặt ngay từ đầu: Thiên Chúa Cứu Độ (Mt 1,23). Và về sau, người ta cũng đặt tên Người bằng danh hiệu Con Thiên Chúa (Mt 26,63; 27,40-43.54) và hai tiếng “Cha Tôi" có tác dụng nhấn mạnh đến sự hiệp thông trọn vẹn với ý muốn của Thiên Chúa, tức là tập trung ý nghĩa vào Cuộc Thụ Nạn. Sau hết, nạn nhân bị nhạo báng bởi con người lại được chào bằng "Đức Chúa" (Mt 26,22). Và Đức Giêsu, thực sự, không ngừng hành xử theo phẩm giá thần thánh này. Người biết, Người ra lệnh, Người thống trị hoàn toàn các biến cố (Mt 26,10.19.25.50.52.54). Matthêu, muốn gợi cho chúng ta thấy sự vĩ đại khôn tả của Đấng chịu đau khổ và chết, đã khiến xảy ra một hiện tượng địa chấn, cuộc động đất, và nhấn mạnh đến chiều kích vũ trụ của sự cố diễn ra (Mt 27,51-54). Ba lần khác, ông xử dụng từ địa chấn này (Mt 8,24; 21,10; 28,2). Khi nghe đọc về cuộc khổ nạn khi suy niệm một cách cá nhân, ta đừng nên chỉ dừng lại mức độ nhạy cảm và đau khổ của con người mà thôi. Ta hãy để cho tâm tình thờ phượng và cảm tạ hồng ân cuốn hút chính ta đi nữa! 46. Người tôi tớ khổ đau của Giavê--‘Suy Niệm Lời Chúa'--Radio Veritas AsiaTrong một ngôi nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một thập giá cổ được giáo hữu rất tôn sùng. Đó là tượng thập giá tha tội, tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh có cánh tay phải rời khỏi thập giá và hạ thấp xuống. Người ta có kể rằng dưới chân cây thánh giá này, có một người tội lỗi đến với cha xứ. Tuy ông xưng thú mọi tội lỗi với lòng thống hối ăn năn, cha giải tội lưỡng lự không biết có nên tha cho ông không, vì thấy ông phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm nghị bảo ông: "Tôi ban phép giải tội cho ông nhưng mà trong tương lai thì phải để ý". Ông ta hứa với cha xứ là sẽ cố gắng sửa mình và tránh mọi tội lỗi. Nhưng vì yếu đuối quá, sau một thời gian ông lại tìm đến xưng tội, Lần này thì cha xứ nói với ông giọng quả quyết: "Tôi ban phép giải tội cho ông lần này nữa là lần cuối cùng đó nghe". Vài tháng trôi qua, ông lại tìm đến cha xứ và quỳ xuống chân cha năn nỉ: "Thưa cha, con thống hối đến tận đáy tâm lòng. Lần nào con cãng nhất quyết giữ lời hứa, nhưng con yếu đuối quá, xin cha tha tội cho con một lần nữa". Cha xứ đáp: "Đâu có thể đùa giỡn với Chúa được. Tôi không ban phép giải tội cho ông nữa". Khi đó cha nghe có tiếng nấc nghẹn ngào. Từ trên thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu hạ xuống làm phép tha tội trên đầu người tín hữu thống hối. Rồi Chúa Giêsu nói với vị linh mục: "Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải con". Và cũng từ ngày ấy, bàn tay của Chúa Giêsu chịu đóng đinh ở trong tư thế ban phép xá giải. "Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc con". Lời ấy chính Chúa Giêsu đã nói với mỗi người trong chúng ta trong Tuần Thánh, với biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem, để sau đó vài ngày chịu đóng đinh và chết trên thập giá, hầu trao ban sự sống mới cho chúng ta. Chương 50,4-7, sách ngôn sứ Isaia là một trong bốn bài ca miêu tả người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa. Trong tuyền thống Kitô, người tôi tớ Giavê là danh hiệu ám chỉ người hiến hoàn toàn cuộc sống mình để phụng sự Thiên Chúa và Lời Ngài, luôn kiếm tìm thi hành ý của Thiên Chúa cho dù có phải chịu đau khổ và bắt bớ đi nữa. Do đó trong lịch sử chú giải Kinh Thánh, khi thì người tôi tớ đó được đồng hóa với ngôn sứ Isaia, khi thì là Giêrêmia, khi khác nữa lại là Đấng Cứu Thế toàn dân Israel. Tuy nhiên, các chương sách Isaia II, tức các chương từ 40-55, đề cập đến cảnh sống lưu đày bên Babylon của dân Israel, do đó có thể bài ca này ám chỉ cách sống đày ải khổ đau của dân Do Thái. Để miêu tả cảnh khổ đau này, bài ca trên đây dùng kiểu nói diễn tả nỗi khổ nhục thê thảm của kiếp sống lưu đày: Đưa lưng cho người ta đánh đòn, ám chỉ hình phạt dành cho người ngu dại bị coi như đồng hạng với thú vật; giơ má cho người ta vặt râu, ám chỉ đến danh dự và lột mất phẩm giá của một người; chường mặt cho người ta phỉ nhổ, ám chỉ mọi hành động xúc phạm và khinh rẻ phẩm giá của một người cũng như sự sống của một người. Tất cả cảnh sống trên đây diễn tả cảnh sống nhục nhã, bị khinh miệt và khổ đau dân Do Thái phải chịu trong thời lưu đày. Tuy nhiên trong tình trạng sống buồn thương ấy, dân Do Thái vẫn ý thức được sự can thiệp của Thiên Chúa. Bởi vì thực ra, chỉ có Thiên Chúa là có thể biến đổi được tình trạng sống khổ đau ấy trở thành suối nguồn trao ban ơn cứu độ cho họ. Qua đau khổ, Thiên Chúa giáo dục cho con người biết sống thái độ sẵn sàng đón nhận thánh ý Ngài. Khi chấp nhận sống lưu đày, dân Israel chấp nhận tự thanh tẩy chính mình khỏi mọi bất trung và tội lỗi đã sai phạm. Họ cảm nghiệm được sâu xa hơn Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và dùng mọi biến cố lịch sử để làm ích lợi cho con người. Trong thời Tân Ước, người tôi tớ khổ đau ấy là hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế chịu khổ nạn và đóng đinh. Thánh Giá xem ra là dấu chỉ của ơn cứu độ và ơn thánh Ngài ban cho con người. Khi tuyệt đối trung thành với thánh gia, chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, đến sẵn sàng chấp nhận khổ đau và cái chết khổ nhục trên thánh giá. Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị cứu độ của khổ đau. Trong chương 2,6-11 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô dùng tước hiệu người tôi tớ ấy để nói về Chúa Kitô. Khi nhập thể làm người, Chúa Kitô đã đi ngược lại lộ trình mà Ađam đã đi xưa kia. Nếu Ađam là hình ảnh diễn tả toàn nhân loại đã từ chối địa vị thụ tạo của mình và muốn trở thành Thiên Chúa, nên phá hủy chương trình Thiên Chúa có đối với loài người trong thời tạo dựng. Thì giờ đây, từ địa vị Thiên Chúa, Đức Giêsu hạ mình làm người, chấp nhận khổ nhục y như một tên nô lệ, một người tôi tớ để trao ban cho loài người cuộc sống hạnh phúc thần thiêng. Con đường Thiên Chúa đi là đại lộ kinh hoàng, là con đường của khổ đau và thập giá, là con đường của khiêm hạ và thất bại. Nhưng nó là con lộ duy nhất dẫn đến ơn cứu độ. Thật vậy, thánh giá khổ nhục và khiêm hạ đánh đổ được kiêu căng tội lỗi đã khiến con người xa rời Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình. Nhưng con đường khiêm hạ được Thiên Chúa can thiệp và đảm bảo với biến cố Phục sinh. Thiên Chúa đã đặt để Chúa Kitô, Ađam mới trong chốn vinh quang, trong nơi danh dự mà Ađam loài người xưa kia đã không đạt tới được. Nội dung con đường trao ban ơn cứu độ ấy được ghi lại trong trình thuật của bốn Phúc Âm, nó là phần nòng cốt được biên soạn ra trước tiên và sau này được các thánh sử khai triển theo hướng thần học riêng của mình. Trong chương 22,14-23,56 thánh Luca trình bày cuộc khổ nạn như một trận chiến quyết liệt cuối cùng của Satan, như là phần kết thúc các cám dỗ nó đã khởi sự trước khi Chúa Giêsu công khai loan báo Tin Mừng Nước Trời. Kết thúc trình thuật ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc, thánh Luca viết trong chương 4,13: "ma quỷ rời bỏ Ngài để trở lại vào thời điểm đã định". Cuộc khổ nạn là thời điểm Satan trở lại để lại vào giao đấu với Chúa Giêsu lần cuối cùng. Ngoài ra, trong nhãn quan thần học của thánh sử Luca, cuộc khổ nạn cũng ghi lại chặng cuối cùng, đồng thời là đạt đỉnh con đường loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu khởi đầu từ Galilê và kết thúc tại Giêrusalem. Cuộc khổ nạn cũng là lúc diễn tả rõ rệt nhất các nét đặc thù trong gương mặt của Chúa Giêsu. Theo thánh sử Luca, trước hết là tinh thần cầu nguyện. Chúa Giêsu đã gia tăng lời cầu nguyện trong những ngày và những giây phút cuối đời của Ngài. Lời cầu hấp hối kéo dài trong vườn cây Dầu trước khi Chúa Giêsu bị bắt là chứng tích rõ ràng nhất. Càng phải đương đầu với thử thách bắt bớ và khổ đau, Chúa Giêsu càng tín thác tha thiết kết hợp với Thiên Chúa Cha cho dù Ngài có cảm tưởng Thiên Chúa làm thinh và cũng đã bỏ rơi Ngài. Tiếp đến là lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu Kitô đối với những người tội lỗi. Chúa Giêsu thương chữa tên đầy tớ thầy thượng phẩm bị chém đứt tai. Nhân từ thương xót với thánh Phêrô đã chối Ngài ba lần, Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô nhân từ, thương xót. Đối với những người đã đóng đinh Ngài: "Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm". Nhân từ thương xót với người ăn trộm bị xử cùng lúc với Ngài: "Hôm nay ngươi sẽ ở cùng Ta trên Thiên Đàng". Sau cùng thánh sử Luca nêu bật thái độ vâng lời triệt để của Chúa Giêsu đối với thánh ý của Thiên Chúa Cha. Theo thánh sử, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không do con người muốn, mà nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Thánh Luca chỉ qui tội cho giới lãnh đạo Do Thái mà thôi, ngay cả quan tổng trấn Philatô cũng được thánh sử châm chước. Nghĩa là theo quan điểm thần học, Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ do Thiên Chúa Cha hoạch định, do đó cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá là điểm tới thành toàn. Chúa Giêsu phải chết không phải do một định mệnh dã man và khắt khe, cũng không phải do quyết định của một người trần gian nào khác, vì Ngài muốn tuân hành thánh ý và chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chương trình cứu độ ấy được thành toàn trên thập giá và qua cái chết hiến dâng đền tội của Chúa Giêsu Kitô, người tôi tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa. 47. Vẫn còn đó sự mâu thuẫn qua cuộc Thương Khó của Đức Giêsu--Jos. Vinc. Ngọc BiểnHôm nay, Giáo Hội hoàn vũ cử hành long trọng biến cố Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Trên hành trình ấy có các môn đệ, những người phụ nữ đã theo Ngài từ lâu, và cả những người đã từng chịu ơn hoặc vì hiếu kỳ cùng đi theo Ngài. Cuộc vào thành của Đức Giêsu lần này cũng như các diễn biến trước và sau đó có nhiều điều lạ thường. Thật vậy, trong cuộc đời sứ vụ, từ lời nói đến hành động của Ngài nhiều khi hàm chứa những sự mâu thuẫn đối với cuộc sống và con người đương thời, cho nên họ không thể hiểu được, và vì thế, dẫn đến cái chết của Đức Giêsu. 1. Sự mâu thuẫn từ phía Đức Giêsu Người ta thường nói: “Mâu thuẫn thì có thể sẽ làm sáng tỏ chân lý tốt”. Thật vậy, trong công cuộc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến sự mâu thuẫn này. Trước tiên, về những lời dạy mang tính mâu thuẫn: ví dụ như khi nói về sự tự hủy, Ngài đã dùng hình ảnh hạt lúa mục nát để sinh bông hạt mới; hay “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (x. Ga 12, 24-25); về sự khiêm nhường, Ngài phán: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14, 11); khi đi dự tiệc, hãy chọn chỗ rốt hết, để được người ta mời lên chỗ danh dự (x. Lc 14, 7-10); vì “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52); về sự hối cải, Ngài nói: cả triều thần Thiên Quốc “... ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15, 7); về sự từ bỏ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Tiếp theo, Đức Giêsu đã nói và áp dụng sự mâu thuẫn đó vào chính mình như sau: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại" (Lc 9, 22); “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12, 32); và Ngài đã sống sự mâu thuẫn ấy khi dân chúng tôn mình làm vua thì lại bỏ chốn và khi dân chúng không tôn thì lại vào thành như vị vua; rồi lạ lùng trong tiến trình “đăng quang”: Ngài là Vua, tiến vào thành của mình, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con vẫn còn theo mẹ (x. Dc 9,9). Là Vua, nhưng không có vương miện, chỉ có vòng gai; không có vương trượng, chỉ có cây sậy; không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhuốc nhơ; không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê; không thống trị bằng sức mạnh, chỉ có phục vụ trong yêu thương cho đến chết và chết trên thập giá vì yêu. Như vậy, những sự mâu thuẫn đến lạ lùng của Đức Giêsu đều nhằm làm toát lên sự vâng lời tuyệt đối của Ngài với Thiên Chúa Cha và vì yêu thương, cứu độ con người. Cả cuộc đời, con người và sứ vụ của Đức Giêsu đều muốn lộ hiện một Thiên Chúa là Tình Yêu. 2. Sự mâu thuẫn từ phía dân chúng Ở đời có câu: "Dò sông dò biển dễ dò - Mấy ai lấy thước mà đo lòng người". Thật vậy, trong cuộc sống, có những mối tương quan tình bạn, và sẵn sàng "rau cháo có nhau " đấy, tuy nhiên, đôi khi cũng chính vì miếng cơm manh áo, con người dễ quay lưng lại với nhau lắm. Đây là những chuyện mâu thuẫn trong cuộc sống. Khi nói về sự mâu thuẫn này, chúng ta lần dở lại lịch sử dân Dothái khi xưa, để thấy lòng họ mâu thuẫn với hành động là thế nào! Khi sống bên Aicập, ngày đêm họ cầu khấn danh Đức Chúa, xin Người đến cứu họ khỏi ách nô lệ tủi nhục cơ cùng, Đức Chúa nhận lời và đã cho Môisê dẫn dân ra khỏi Aicập thoát khỏi cảnh áp bức bạo tàn. Nhưng chẳng bao lâu, sự mâu thuẫn cũng đã xảy ra. Khi gặp có chút thử thách, họ đã than trách Chúa, và nhớ những củ hành, củ tỏi bên Aicập, tệ hơn nữa, đã đúc bò vàng để thờ lạy thay Đức Chúa, Đấng đã cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Đây chính là sự mâu thuẫn do sự bất trung của dân với Đức Chúa. Sang thời Đức Giêsu cũng vậy, trong giai đoạn này, những người Dothái đã chứng kiến các phép lạ của Đức Giêsu làm, nào là chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, cho người chết sống lại, và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng... Vì thế, họ tâm phục Đức Giêsu, nên khi vào thành, dân chúng đã tung hô Ngài là con vua Đavít, là Vua Israel. Và như là sự tất yếu, họ đã chặt cành lá lót đường và trải áo mình để Đức Giêsu đi qua. Hành vi này là hành vi tôn kính, ngưỡng mộ của người Đông Phương đối với một ai đó. Đức Giêsu thuộc về số người được như vậy. Cuộc diễu hành rầm rộ làm náo lòng những nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị thời bấy giờ. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn bề ngoài, thì ta sẽ dễ dàng kết luận là đám dân đang tung hô Đức Giêsu đây có lòng yêu mến Ngài thực sự. Nhưng sự thật không hẳn như thế, chẳng bao lâu, họ đã mâu thuẫn với tất cả những gì diễn ra hôm Đức Giêsu vào thành. Thật vậy, vẫn những người đã tôn vinh, chúc tụng Đức Giêsu hôm nào, thì chẳng bao lâu sau, họ đã toa dập với thế lực sự ác để làm chứng gian hại Ngài và hô vang: hắn đáng chết; đóng đinh nó vào thập giá... Sự thật đã rõ, họ cung chúc Đức Giêsu chỉ vì hy vọng Ngài làm Vua để thống lãnh theo kiểu trần gian, đánh đông dẹp bắc, giải thoát họ khỏi ách thống trị của Đế Quốc và nhiều khi theo Chúa chỉ vì cái bụng, vì những ân huệ, bổng lộc thức thời... Và, họ đã bị thất bại khi không được Đức Giêsu đáp ứng những yêu sách đó, vì thế, họ đã sẵn sàng giơ tay ủng hộ án tử nơi Đức Giêsu và chìa tay, nghiêng đầu để hứng lấy máu người vô tội đổ trên đầu mình khi nói: "Máu hắn đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!" (Mt 27,25). Lý do dẫn họ đến sự thất vọng là vì sự mâu thuẫn của họ do tham sân si thúc đẩy, còn sự mâu thuẫn của Đức Giêsu thì do lòng bao dung, hướng tha và dùng chính cái chết để cứu chuộc con người, vì thế, con đường cứu độ của Ngài không là gì khác ngoài thập giá và cái chết đau thương trên đồi Golgotha. Đây là sự mâu thuẫn lòng dân với con người và sứ vụ của Đức Giêsu. 3. Hai sự mâu thuẫn dẫn đến hệ quả khác nhau Như vậy, sự mâu thuẫn của Đức Giêsu là vì tình yêu. Ngài yêu Thiên Chúa Cha tuyệt đối, nên đã vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Những lời dạy của Đức Giêsu có vẻ mâu thuẫn về lối hành văn, truyền thống, nhưng lại thống nhất tuyệt đối về bề ngoài lẫn bề trong nơi con người của Ngài. Đức Giêsu chính là hình ảnh của Ađam thủa nào, nhưng khác nhau ở chỗ Đức Giêsu, Ađam mới thì vâng lời, trung thành, còn Ađam cũ thì bội ước và bất trung. Sự mâu thuẫn trong lời giảng dạy, lối sống và hành động của Đức Giêsu thể hiện rõ nét sự khiêm nhường, tự hạ, yêu thương và cứu chuộc con người. Như vậy, mâu thuẫn nơi Đức Giêsu làm cho con người được kết hiệp mật thiết hơn với Thiên Chúa và tha nhân để đạt được tình trạng tự do và hạnh phúc thực sự khi đã loại trừ cái tôi ích kỷ, tự phụ, kiêu căng để hướng tha. Còn sự mâu thuẫn của những người Do thái thì hoàn toàn khác: Khác là chỉ vì cái bụng của họ, do ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo hay những mục đích tầm thường rẻ tiền. Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa hay Đức Giêsu cũng chỉ vì cái bụng. Hoặc chỉ vì danh vọng, chức quyền, lợi nhuận cá nhân hay tập thể, chứ không phải vì yêu mến, tin tưởng, phó thác. Sự mâu thuẫn này nơi dân Do thái lộ hiện rõ bản chất thực dụng hay ý đồ đen tối của họ. Vì thế, dẫn đến sự đối đầu. Đức Giêsu không đối đầu với họ, nhưng tự họ trở nên bất ổn nên dẫn đến hệ quả là khước từ Thiên Chúa để thờ bò vàng, rồi đến lượt Đức Giêsu, họ tìm cách loại Ngài ra khỏi môi trường và cuộc sống của họ. 4. Người kitô hữu sống sự mâu thuẫn của Tin Mừng Ngày hôm nay, chúng ta đang sống trong một xã hội không mấy chân thực. Đời sống đạo đức bị đảo lộn rất nhiều. Phong tục tập quán tốt dần dần được thay thế bằng những trào lưu tục hóa, nhất thời... Đây chính là sự mâu thuẫn luân thường đạo lý trong xã hội. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó trong xã hội những chuyện: “chân lý thuộc về kẻ mạnh”; vẫn còn đó những chuyện thỏa hiệp, toa rập để cho hận thù, chia rẽ lên ngôi; vẫn còn đó những chuyện vì miếng cơm manh áo, vì lợi nhuận cá nhân, củng cố chức quyền mà sẵn sàng bất chấp bán rẻ lương tâm để cho lương tháng được nhiều. Những người có lương tri và đạo hạnh lại là mối đe dọa của sự bất công, suy đồi và gian dối. Biết nó là sự dữ, nhưng vẫn còn đó những lương tâm trai lỳ, những trái tim hóa đá, những ánh mắt bất công, khinh thị...Vẫn còn đó sự mâu thuẫn là ai cũng muốn sống, nhưng lại không thương tiếc tra tay vào việc giết đi sự sống của người khác, nhất là những thai nhi vô tội. Nếu chúng ta thuộc về những thành phần như thế, ấy là lúc chúng ta làm cho những vết thương của Đức Giêsu tiếp tục rỉ máu, và cuộc thương khó của Đức Giêsu không ngừng tái diễn, khiến Chúa phải đau khổ, tủi nhục đắng cay và ngay cả cái chết qua những hành vi, lựa chọn sai lầm và tàn nhẫn của con người. Hôm nay, chúng ta bước vào Tuần Thánh, là đỉnh cao của năm phụng vụ, đây là cơ hội để mỗi người rà soát lại lương tâm và sự lựa chọn của mình trong cuộc sống, nhằm sống sao cho đẹp lòng Chúa, ích lợi cho phần rỗi của mình và vì ơn cứu độ của tha nhân. Vì thế, xin gửi lại nơi bạn và tôi một vài câu hỏi để chúng ta cùng nhau suy nghĩ: - Tôi đang đi theo ai? Theo Chúa hay theo những mục đích thực dụng như tiền, quyền, tình? - Khi tôi có quyền, có chức, tôi có phục vụ và làm cho người khác được hạnh phúc hay tôi lợi dụng vị trí cao của tôi để bóc lột, trà đạp nhân phẩm người khác? - Đứng trước một việc tốt hay xấu, ta có để cho Lương Tâm lên tiếng và làm theo, hay chỉ vì miếng cơm manh áo, chỉ vì sức ép lương tháng mà ta phủi tay với việc tốt và thượng tôn điều bất chính, sẵn sàng làm chứng gian hại người, đẩy người khác vào con đường cùng và ngay cả cái chết do mù lương tri? Khi đặt ra câu hỏi như thế, mặc cho mỗi chúng ta lự chọn đứng về phía thiện hay ác, nhưng chỉ mong mỗi người chúng ta hiểu rằng: chúng ta có thể đánh lận con đen, che đậy và ngụy trang để người đời không biết những sự khuất tất của chúng ta làm, nhưng Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự kín nhiệm, Ngài biết rất rõ mọi hành vi của chúng ta, và điều tốt hay xấu, hạnh phúc hay ngược lại là do cuộc sống và hành vi của chúng ta đã làm. 48. Từ thập giá tủi nhục đến Thánh Giá vinh quang!--Lm Nguyễn Hài ĐồngTrong Ngày Chúa chết, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, một hình dáng xù xì, khẳng khiu, vươn cao lên, xòe rộng ra, bao phủ lấy chúng ta: đó là Cây Thánh Giá của Chúa Giêsu Kitô. Cây thập giá và Cây Thánh Giá khác nhau một trời một vực! Cây thập giá là do lòng hận thù của con người nghĩ ra, còn Cây Thánh Giá là do sáng kiến cứu chuộc của tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi chúng ta. Cây thập giá là hai miếng gổ gồ ghề, nặng nề, trần trụi, bắt chéo vào nhau như hình chữ Thập, dùng làm hình khổ rùng rợn để giết người một cách rất dã man, do người ngoại giáo độc ác bày ra để hành hạ và giết chết một cách vô cùng tàn nhẩn những ai họ cho là phạm tội ghê gớm, những kẻ nô lệ vô phước nằm trong tay họ, những ai bị họ đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cây thập giá nầy đã được Chúa Giêsu, cách đây hơn 2000 năm, vác lên Núi Sọ và bị đóng đinh chết vào đó. Nhưng lạ lùng thay! Kể từ ngày Chúa Giêsu của chúng ta giăng tay chịu đóng đinh chết trên cây thập giá nầy, thì cây thập giá nầy được trở thành Cây Thánh Giá huy hoàng, rực rỡ và vô cùng cao trọng. Đây là một hiện tượng lạ lùng trên trần gian nầy, hiện tượng mà loài người không thể nào cắt nghĩa được, nếu không được cắt nghĩa bằng Đức Tin. Trước, thì cây thập giá quá đen tối, quá kinh tởm, quá tủi nhục, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại quá sáng chói, quá hấp dẫn, quá vinh quang! Trước, thì cây thập giá chỉ có mặt nơi tử địa, nơi pháp trường, nơi chỗ đê hèn nhục nhã, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được đặt khắp nơi, được đặt nơi trang trọng nhất, được đặt trên đỉnh núi cao nhất, được đặt dưới lòng biển sâu nhất. Trước, thì cây thập giá bị chối từ, bị nhờm gớm, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được mang nơi ngực, được đeo nơi cổ, được hôn kính dấu yêu. Trước, thì cây thập giá chỉ được làm bằng gỗ sần sù lởm chởm, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được làm bằng vàng, bằng bạc, bằng những thứ kim loại đắt giá nhất thế giới. Vì sao người Công Giáo dành cho Cây Thánh Giá một địa vị vô cùng đặc biệt như thế? Vì sao người Công Giáo dành cho Cây Thánh Giá địa vị ngang hàng như Thiên Chúa vậy? Vì trên Cây Thánh Giá, có Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm Người, vì yêu thương loài người quá bội, nên đã nộp mình chịu đóng đinh chết trên đó để cho loài người được sống, được sống hạnh phúc chân thật, và được sống như vậy một cách dồi dào. Trên Cây Thánh Giá, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã nếm chịu muôn vàn đau khổ ê chề: đau khổ bên ngoài: bị lột hết áo quần ra, không một mãnh vải che thân...; đau khổ thể xác: từ trên đỉnh đầu cho đến dưới bàn chân, chẳng chỗ nào là chẳng xể xài rách nát, cùng bày xương ra...; đau khổ tinh thần: bị sỉ nhục, bị bỏ vạ, bị cáo gian, bị chửi rủa thậm tệ...; đau khổ tâm hồn: thấy trước đủ mọi thứ tội lỗi tầy trời do con người phạm, thấy trước đủ mọi thứ vong ân bội nghĩa phát xuất từ con người...; đau khổ tình cảm: thấy những người thân yêu của mình, nhất là Mẹ mình, đang đứng dưới chân mà không làm gì được cho Mẹ thân yêu. Nhưng dù ngụp lặn giữa đau khổ, Chúa Giêsu trên Cây Thánh Giá vẫn tỏ ra vô cùng nhẩn nhục, đầy lòng tha thứ, vui lòng chịu khổ để làm trọn Thánh Ý Chúa Cha và để tỏ lòng yêu thương loài người một cách đặc biệt. Trên Cây Thánh Giá, Chúa Giêsu là Đấng vô tội, nhưng đã bị vu cáo; là Đấng Công Chính, nhưng đã bị kết án; là Đấng vô cùng thánh thiện, nhưng đã bị đày ải; là Vua trên trời dưới đất, nhưng đã bị hành hạ nhục nhã, bị đóng đinh chết tất tưởi; là Con Thiên Chúa toàn năng, nhưng đã bị thóa mạ, bị dày đạp, bị từ chối; là Ánh Sáng, nhưng đã bị tối tăm vây phủ; là Đấng vô cùng cao sang, nhưng đã bị trần truồng nhuốc hổ, treo mình chết trên hai miếng gỗ; là Sự Sống, nhưng đã phải trút hơi thở cuối cùng; là Sự Chết, nhưng cũng là sự Sống Lại. Vì thế, thánh Gioan Kim Khẩu ca tụng Cây Thánh Giá hết lời: Cây Thánh Giá là hy vọng của người kitô-hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kềm hãm những kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng ma quỷ, là kẻ chỉ đạo cho người thanh niên, là bánh lái cho những người vượt sóng, là cửa biển cho những kẻ đi xa, là thành lũy cho những kẻ bị vây hãm. Trong kinh A RẤT THÁNH GIÁ, chúng ta sung sướng kính mừng Cây Rất Thánh Giá là Cây đã chuộc muôn dân đặng rỗi, là Cây cho kẻ có phước đặng phần vui mừng, là Cây cho kẻ có tội đặng lòng trông cậy, là Cây cho kẻ yếu đuối đặng nhờ sức mạnh, là Cây cho kẻ khốn nạn đặng sự an lành, là Cây tốt lành rất mực, diềm dà im mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình, là Cây đưa chúng ta qua khỏi gian nan đến Nước Thiên Đàng. Cây Thánh Giá tóm lược tất cả những tín điều vô cùng cao siêu của Đạo chúng ta: tín điều Một Thiên Chúa, tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi vô cùng sâu thẳm, tín điều Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, Nhập Thể, nhập thế, tín điều Cứu Chuộc! Cây Thánh Giá dạy chúng ta nhiều bài học tín lý và luân lý: Hình thẳng của Cây Thánh Giá: dạy chúng ta mến Chúa. Hình ngang của Cây Thánh Giá: dạy chúng ta yêu người. Tay Chúa Giêsu giăng ra: dạy chúng ta ôm lấy tất cả mọi người, không xua trừ ai; tha thứ tất cả mọi xúc phạm lớn nhỏ, không trừ xúc phạm nào. Tay Chúa Giêsu bị đóng đinh: đền những tội tay chúng ta thường phạm, là biếng nhác, cắp trộm, tức giận, dâm ô; treo cao gương cho chúng ta sống cầu nguyện, siêng năng làm việc, yêu thương giúp đỡ, rộng rãi bố thí. Chân Chúa Giêsu bị đóng đinh: đền những tội chân chúng ta thường phạm, là đi vô ích, đi có hại, đi phạm tội; treo cao gương cho chúng ta đi Nhà Thờ, đi học giáo lý, đi làm việc đạo đức, đi làm việc bổn phận, đi làm việc hữu ích, đi làm việc bác ái, yêu thích nơi gia đình mình đang ở, yêu thích nơi cộng đoàn mình đang sống. Tim Chúa Giêsu bị đâm thủng: dạy chúng ta lo diệt lửa dục tình, lo thắp sáng lửa nhiệt thành làm việc tông đồ, lo yêu mến Phép Thánh Thể, yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu, đừng sống bạc nghĩa vô ơn đối với Chúa hằng yêu thương loài người chúng ta vô bờ vô bến. Bốn cây đinh đóng Chúa Giêsu vào Cây Thánh Giá: dạy chúng ta lo xa lánh bốn điều đưa chúng ta đi trên con đường tội lỗi, là thói quen xấu, lui tới dịp tội, ao ước thỏa mãn dục vọng, sợ dư luận; dạy chúng ta lo tập bốn điều đưa chúng ta đi trên con đường nhân đức, là thói quen tốt, chu toàn các việc bổn phận của mình, hy sinh hãm mình, can đảm trước dư luận. Thánh Casimirô, mỗi lần có dịp nhìn lên Cây Thánh Giá, thì quá cảm động, nước mắt trào tuôn! Hãy đặt Cây Thánh Giá trong nhà bạn, trong phòng bạn. Hãy đeo Cây Thánh Giá nơi ngực bạn, nơi cổ bạn. Hãy làm Dấu Thánh Giá cho thật nghiêm trang, sốt sắng. Hãy năng nhìn lên Chúa Giêsu trên Cây Thánh Giá. Và nhất là, hãy luôn mang Thánh Giá trong lòng bạn, trong tâm hồn bạn!
49. Cuộc Thương Khó Chúa Giêsu--Lm. Inhaxiô Hồ ThôngPhụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta tưởng niệm cuộc Tử Nạn sinh ơn Cứu Độ của Đức Giê-su Ki-tô. Is 50:4-7 Bài Đọc I trích từ tác phẩm của I-sai-a đệ nhị cho chúng ta thoáng thấy dung mạo của người công chính chịu đau khổ, dưới những đường nét của người tôi trung của Đức Chúa, bị nhạo báng, khinh bỉ mà không đối kháng, nhưng trọn một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Pl 2:6-11 Tiếp đó, chúng ta gẫm suy mầu nhiệm tự hạ và tôn vinh của Đức Giê-su qua bài thánh thi Ki-tô học được thánh Phao-lô ghi lại trong thư gửi tín hữu Phi-lip-phê. Đây là bằng chứng đáng chú ý về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi. Mt 26:14-27:66 Và sau cùng, theo chu trình Phụng Vụ Năm A, chúng ta đọc và suy gẫm bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. BÀI ĐỌC I (Is 50:4-7) Bản văn này cho chúng ta dự phần vào niềm tin tưởng của vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Vì luôn lắng nghe Thiên Chúa, chăm chú vào lời Ngài, suy niệm mỗi ngày, vị ngôn sứ không thoái thác sứ mạng của mình là đem niềm an ủi đến cho những người bất hạnh. Ông đã không nhận được bất kỳ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại, những xúc phạm và nhục hình. Ông đã bị đánh đòn, tra tấn (bị giật râu là một hình phạt rất nhục nhã), ông đã nhận những khạc nhổ vào mặt, được xem như cử chỉ khinh bỉ tột cùng, như nhiều đoạn văn Cựu Ước làm chứng. Nhưng người tôi trung này đã đặt niềm tin tưởng của mình vào Đức Chúa. Ông đã “trơ mặt như đá,” nghĩa là “kiên vững không hề chuyển lay”. Thánh Lu-ca nói với chúng ta “Đức Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem” (Lc 9:51) chấp nhận bước vào con đường Thương Khó của Ngài, nghĩa là Ngài thu hết can đảm của mình và kiên vững trong ý định của mình. 1. Văn mạch Bài ca được trích dẫn hôm nay là bài ca thứ ba trong số bốn bài ca được gọi “các bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), vị ngôn sứ cuối thời kỳ lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ IV tCn. “Người Tôi Trung” được phác họa chân dung lúc thì dân Ít-ra-en, lúc thì một nhân vật đặc thù lãnh nhận một sứ mạng đặc biệt. Nhân vật này được hiểu vừa tập thể vừa cá nhân vì hai hình ảnh này được đan vào nhau trong nhiều đoạn. Người Tôi Trung này hành xử với thái độ dịu dàng và khiêm tốn (bài ca thứ nhất). Thiên Chúa giao phó cho ngài trách nhiệm giải phóng dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai), ngài gặp phải những bách hại và sỉ nhục (bài ca thứ ba), ngài cam chịu một cái chết ê chề nhục nhã, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư). Ở đây, có một khúc quanh quan trọng của Mặc Khải. Cho đến lúc đó, những viễn cảnh thiên sai đều tập trung vào một dung mạo của vị vua vinh hiển, hậu duệ Đa-vít, ngài sẽ đem lại sự công chính và nền hòa bình. Ấy vậy, vào lúc này không còn vua. Thể chế vương quyền Đa-vít đã bị chìm lấp trong cơn bão táp của thời cuộc, đền thờ Sa-lô-mon bị phá hủy, phần lớn dân cư Giê-ru-sa-lem bị lưu đày. Đây là thời giờ thích hợp để loan báo sứ điệp mới. Khoa sư phạm Thiên Chúa, qua những trực giác ngôn sứ, đã tiến một bước vĩ đại. Những sấm ngôn thời xưa không vì thế mà bị hủy bỏ (Đấng Mê-si-a rõ ràng vẫn thuộc hậu duệ Đa-vít), nhưng những viễn cảnh mới để lộ cho thấy “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” sẽ can thiệp, “Đấng được Đức Chúa xức dầu” sẽ thi hành sứ mạng, khởi đầu sứ mạng không huy hoàng rực rỡ, trong dáng vẻ thất bại bên ngoài, đau khổ và cái chết, trước khi đạt được vinh quang. 2. Vị ngôn sứ khiêm hạ Dường như phải nhận ra ở nơi người tôi trung hiền lành và khiêm hạ này chính là vị ngôn sứ I-sa-ia đệ nhị. Được Thiên Chúa giao phó trọng trách an ủi những người lưu đày bất hạnh chán nãn tuyệt vọng, ông không trốn tránh công việc bội bạc này. Ông đã cố làm cho họ hiểu ý nghĩa của những thử thách của họ, kêu gọi họ hoán cải, hứa ban ơn giải thoát cho họ. Ông gặp phải thái độ thờ ơ lãnh đạm, nghi nan ngờ vực, và tính khí hung hăng của những kẻ mà nỗi đắng cay do thời gian lưu đày dài lâu đã khiến họ trở nên bực tức phẩn nộ. 3. Người công chính bị bách hại Qua những đau khổ mà mình phải chịu, vị ngôn sứ mặc lấy dung mạo của “Người Công Chính” hoàn hảo. Bản văn mang cung giọng thời thiên sai. Đức Giê-su sẽ đích thân thực hiện sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho Ngài trong sự vâng phục hoàn hảo. Chính Ngài sẽ đem Tin Mừng đến cho những người nghèo khó, những kẻ khốn cùng. Như vị ngôn sứ vô tội, Ngài sẽ đón nhận và cam chịu những lăng nhục, khinh bỉ, nhục hình trong tâm tình cảm tạ mà không hề run sợ, “vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn.” Bài ca thứ ba này cho chúng ta cảm thấy trước bài ca thứ tư thống thiết về Người Tôi Trung chịu đau khổ sẽ được đọc vào Thứ Sáu Tuần Thánh. BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11) Bài Đọc II trích từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-li-phê là một bài thánh thi gồm sáu khổ thơ: ba khổ thơ đầu vạch lại ba giai đoạn về việc Đức Giê-su tự hạ mình, và ba khổ thơ sau, theo chiều hướng ngược lại, vạch lại ba giai đoạn về việc Chúa Giê-su được Chúa Cha tôn vinh. Thật là ngạc nhiên khi gặp thấy trong một bức thư chan chứa giọng điệu nồng nàn nhưng khá quen thuộc, những cảm xúc như trào dâng ra từ ngòi bút. Chúng ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay thánh nhân chỉ trích dẫn bài thánh thi Ki-tô học của Giáo Hội tiên khởi. Dù sao đây là một chứng liệu đáng chú ý, một trong những chứng liệu cổ xưa nhất về Ki-tô học, nhất là một lời chứng có giá trị đầu tiên (trước cả Tựa Ngôn của thánh Gioan) về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su. 1. Ba giai đoạn của việc tự hạ (2: 6-8) 1)- Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa, không từ bỏ bản tính thần linh, nhưng vinh quang được gắn chặt vào đây. 2)- Ngài hủy bỏ chính mình mà mang lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như phàm nhân, nghĩa là chia sẻ mọi sự yếu đuối của họ (ngoài trừ tội lỗi). 3)- Ngài tự hạ mình hơn nữa khi chấp nhận vâng lời cho đến chết tủi nhục trên thập giá. 2. Ba giai đoạn của việc tôn vinh (2: 9-11)
1)- Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài và ban cho Ngài “danh hiệu” vượt lên trên mọi danh hiệu. “Danh hiệu” được hiểu theo nghĩa tuyệt đối, nghĩa là “danh hiệu” này được ban cho chỉ duy một mình Ngài, chính là “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” như được chỉ ra ở phần sau: Danh mà truyền thống Do thái dùng để chỉ Danh khôn tả của Thiên Chúa. “Danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” vì thế được định vị thậm chí trên tất cả mọi triều thần: “Quyền Thần”, “Tổng Thần” vân vân 2)- Thiên Chúa muốn muôn loài muôn vật phụng thờ Đức Giê-su: “Để khi nghe tên Giê-su, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống”. Đó không phải vì nhân danh Giê-su (vì tên này khá phổ biến trong dân Do thái), nhưng vì Danh Đức Giêsu bất khả phân với Danh Đức Chúa, như khổ thơ trước đó vừa mới chỉ ra. Kiểu nói: “Trên trời dưới đất và trong địa ngục”, chỉ ra toàn thể vũ trụ, chứ không chỉ nhân loại phải phụng thờ Đức Giê-su. Đây là một đề tài mà chúng ta sẽ gặp lại trong sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: ‘Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!’” (Kh 5: 13). 3)- Cuối cùng Thiên Chúa ban tặng cho Đức Giê-su quyền tối cao hoàn vũ, nghĩa là tước hiệu “Chúa”. Vì các Ki-tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Ki-tô danh hiệu này mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, đây là nét đặc trưng của lời tuyên xưng đức tin tiên khởi. Thánh Phao-lô nhiều lần nhấn mạnh tính chất thần linh ở nơi danh hiệu này, cũng như thánh Lu-ca trong Công Vụ Sứ Đồ. Phần cuối của bài thánh thi xác định “để Thiên Chúa Cha được vinh quang”. Chính đó cũng là một nét thần học xứng đáng được nhấn mạnh: tôn vinh Đức Giê-su là tôn kính vinh quang của Thiên Chúa Cha. Phụng vụ Ki-tô giáo sẽ theo nghĩa này: “muôn ngàn lời chúc tụng Đức Ki-tô, tôn vinh Đức Chúa Cha”. 3. Mẫu gương phải noi theo Thánh Phao-lô quý mến cộng đoàn tín hữu Phi-lip-phê mà thánh nhân đã thiết lập vào năm 49-50 và là cộng đoàn đầu tiên trên đất Châu Âu. Phi-lip-phê là một thành phố quan trọng của miền Ma-kê-đô-ni-a, được gọi theo tên vua Phi-lip-phê, phụ hoàng của đại đế A-lê-xan-đê, người xâm chiếm miền này vào năm 360 tCn. Khi viết cho cộng đoàn tín hữu Phi-lip-phê, thánh nhân đang bị giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô. Thánh nhân mong ước những Ki-tô hữu Phi-lip-phê thân yêu của mình biết sống trong sự hiệp nhất và đặc biệt trong sự khiêm hạ sâu xa theo mẫu gương của Đức Giê-su. TIN MỪNG (Mt 26: 14-27: 66) Tin Mừng hôm nay là “Bài Thương Khó Đức Giê-su theo Tin Mừng Mát-thêu”. Như các tác giả Tin Mừng khác, thánh Mát-thêu dành một chỗ rộng lớn cho bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô trong sách Tin Mừng của mình. Như vậy, chúng ta có lời chứng cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã hiểu biến cố Tử Nạn không là một sự cố xấu hổ và nhục nhã mà biến cố Phục Sinh đã xóa đi, nhưng trái lại là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Sự thách đố của Thập Giá đã được các Kitô hữu tiên khởi đảm nhận, bất chấp điều kỳ chướng đối với người Do thái vốn ưa thích những điềm thiêng dấu lạ, bất chấp điều ngu xuẩn trong cái nhìn tự hào là khôn ngoan của người Hy lạp, và bất chấp một cái gì hoàn toàn ngược với lẽ khôn ngoan bình thường. Trung thành với viễn cảnh Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu cho thấy cuộc Thương Khó của Đức Giê-su ứng nghiệm Kinh Thánh khi trích dẫn minh nhiên hay mặc nhiên vô vàn những lời Kinh Thánh. Giu-đa phản bội (26: 14-15) Việc Giu-đa phản bội Thầy mình được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Cả ba đều nhấn mạnh rằng Giu-đa là “một người trong Nhóm Mười Hai”, việc xác định này nêu bật tính bỉ ổi hành động phản bội của hắn. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất mô tả cuộc mặc cả của Giu-đa: “Tôi nộp ông ấy cho quí vị, thì quí vị muốn cho tôi bao nhiêu”. Trong khi đó tại thánh Mác-cô và thánh Lu-ca chính các thượng tế đề nghị cho hắn tiền. Như vậy, thánh Mát-thêu nhấn mạnh trách nhiệm của tên phản bội và chuẩn bị bài tường thuật về cái chết của hắn mà chỉ mình thánh ký tường thuật (27: 3-10). Thánh Mát-thêu cũng là thánh ký duy nhất kể ra giá thương lượng giữa hai phía là “ba mươi đồng bạc”, tức giá mua bán một nô lệ (x. Xh 21: 32). Qua số tiền này, thánh Mát-thêu nhằm cho thấy rằng Kinh Thánh đang được ứng nghiệm. Theo ngôn sứ Da-ca-ri-a chính với số tiền ô nhục này Ít-ra-en đã dùng để tẩy chay vị mục tử nhiệm mầu mà Chúa đã gửi đến cho họ (Dcr 11: 11). Sự ám chỉ này khó mà thoát khỏi những người Kitô hữu gốc Do thái, vốn am tường Kinh Thánh. Bữa ăn từ biệt (26: 17-19) Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men là hai ngày lễ đi đôi với nhau; lễ Vượt Qua diễn ra một ngày, lễ Bánh Không Men kéo dài bảy ngày. Nhưng từ lâu cả hai ngày lễ này trở thành một ngày đại lễ. Khi thánh Mát-thêu nói: “ngày thứ nhất trong tuần bánh không men”, thánh ký chỉ rõ lễ Vượt Qua. Trước khi bắt đầu tường thuật việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, thánh Mát-thêu gợi lên lễ Bánh Không Men, để loan báo rằng Đức Giê-su sẽ là bánh mới, hoàn toàn tinh tuyền, của lễ Vượt Qua mới. Lễ Vượt Qua phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; con chiên sát tế trong sân Đền Thờ phải được ăn mừng trong thành đô. Đức Giê-su là một nhà giảng thuyết lưu động không nơi cư ngụ: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu qua đêm”. Các sách Tin Mừng đều tường thuật rằng khi chiều xuống, Đức Giê-su ra khỏi thành (Mc 11: 19), hoặc đến Bê-ta-ni-a (Mt 21: 17 và Mc 11: 19), hay đi ra núi Ô-liu (Lc 22: 39) để qua đêm. Hơn nữa, Ngài và các môn đệ đều là những người Ga-li-lê đến mừng lễ ở Giê-ru-sa-lem được xem đất khách quê người. Vì thế các môn đệ lo lắng hỏi: “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”. “Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca xác định “một người mang vò nước”. Thật kỳ lạ, thánh Mát-thêu lại thích vô danh hơn. “Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy”. Động từ “ăn mừng” hay “cử hành” chưa nói lên hết sắc thái tinh tế của bản văn. Theo nguyên văn, động từ “làm” hay “thực hiện” ở đây có một nét nghĩa rất mạnh để chỉ hành vi sáng tạo. Đức Giê-su sắp sáng tạo một lễ Vượt Qua đặc biệt, lễ Vượt Qua của Ngài. Loan báo sự phản bội (26: 20-25) Cả bốn tác giả Tin Mừng đều tường thuật lời loan báo này: “một người trong anh em sẽ nộp Thầy”; tất cả đều nhấn mạnh nghi thức đồng bàn, chia sẻ cùng của ăn thức uống giữa Đức Giê-su và ông Giu-đa. Theo quan niệm của người xưa, một cử chỉ như vậy nói lên lời cam kết “đồng sinh đồng tử”, “đồng hội đồng thuyền”. Như vậy, nêu bật sự bỉ ổi của hành vi phản bội. Đức Giê-su tế nhị không nêu đích danh ai. Khi không nêu đích danh ai, Ngài thử kêu gọi lần sau cùng để đánh thức tiếng lương tâm người bạn đồng hành này nhớ lại những ngày tháng Thầy trò sống chung với nhau mà hồi tâm chuyển hướng. Bầu khí trở nên ngột ngạt. Ấy vậy, Đức Giê-su trong những tình thế nghiêm trọng, thích gợi lên tước hiệu thiên sai “Con Người” của mình, dưới tước hiệu này Ngài thu nhận mầu nhiệm con người của Ngài. Sự kiện Ngài bị nộp là nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa đã được Kinh Thánh loan báo, tuy nhiên điều ấy vẫn không giảm thiểu đi tí nào trách nhiệm của kẻ phản bội. Số phận y rất tồi tệ và ngay bây giờ y biết là tội phản bội của mình đã bị Thầy biết rồi. “Khốn cho kẻ đã nộp Con Người…”. Đây không là lời nguyền rủa; chúng ta không thể nào tưởng tượng rằng Ngài có thể thốt lên những lời nguyền rủa như thế vào giờ phút Ngài sắp đổ mình để chuộc muôn người; nhưng đúng hơn đây là một ghi nhận đáng buồn. Đức Giê-su đã không bao giờ nguyền rủa ai. Có những lần Ngài đã đe dọa khi loan báo những trừng phạt: “Khốn cho các ngươi…”, nhưng đây không là những lời nguyền rủa, nhưng là những lời cảnh báo. Trong khi các môn đệ khác buồn rầu hỏi: “Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?”, thì Giu-đa đành lòng hỏi Đức Giê-su một cách giản dị: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?”; hắn đã mất đi sự kính trọng đối với Thầy rồi, vì chỉ xem Thầy mình chỉ là một kinh sư như bao nhiêu kinh sư khác, hắn muốn dứt tình đoạn nghĩa với Thầy. Thiết lập bàn tiệc Thánh Thể (26: 26-29) Tại thánh Mát-thêu, như tại thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, Đức Giê-su mừng lễ Vượt Qua Do thái với các môn đệ Ngài; qua việc thiết lập Thánh Thể, Ngài sắp biến đổi lễ này thành lễ Vượt Qua Ki-tô giáo. Có cả sự tiếp nối lẫn sự đoạn tuyệt, cả sự song đối lẫn cái mới tận căn. Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm cuộc giải thoát Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập; nhờ máu con chiên được bôi trên khung cửa, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Ngài nên đã không đánh chết họ. Đức Giê-su loan báo cuộc giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ của tội lỗi bởi máu Ngài đã đổ ra cho “muôn người được tha tội”. Về phương diện lịch sử, cuộc giải thoát khỏi Ai-cập đã hình thành nên dân Ít-ra-en là dân Chúa chọn và cuộc tuyển chọn này đã được thánh hiến trên núi Xi-nai, bởi Giao Ước Cũ. Nhờ cuộc hiến dâng mình và máu của Ngài được chia sẻ cho hết mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Thiên Chúa mới và Giao Ước Mới được đóng ấn trong máu Ngài. Trong bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Như vậy, nếu khung cảnh vượt qua soi sáng việc biến đổi cử hành xưa, sự kiện bữa ăn này cũng là bữa ăn từ biệt mặc khải tất cả khía cạnh đau thương: Đức Giê-su sắp từ giã những môn đệ thân thiết của Ngài, những người mà Ngài đã yêu thương, những người mà Ngài ủy thác sứ mạng truyền đạt sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; Ngài gặp thấy phương tiện được ở với họ, khi thiết lập quà tặng của riêng Ngài này mà các môn đệ có thể tái hiện luôn mãi, như những người nối tiếp sự nghiệp của Ngài. Thánh Mát-thêu cũng nhấn mạnh giá trị “cánh chung” của bàn tiệc Thánh Thể. Bàn tiệc này là một sự tham dự trước bàn tiệc thiên quốc: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày, Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy”. Đời sống mai hậu thường được biểu thị như một bàn tiệc; rượu như một trong những dấu chỉ của “niềm vui thời thiên sai” và niềm vui muôn đời của thế giới hậu lai. Đây là một trong những ý nghĩa của phép lạ Ca-na, tiên trưng phép lạ Thánh Thể. Nước hóa thành rượu tương xứng với rượu hóa thành máu. Sự đối xứng đáng ngạc nhiên của phép lạ nước hóa thành rượu và phép lạ rượu hóa thành máu này. Thánh Phê-rô sẽ chối thầy (26: 30-35) Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: “Hát thánh vịnh xong…”. Chủ yếu từ thánh vịnh 113 đến thánh vịnh 118, mà người dự tham dự hát sau bữa ăn (người ta ngâm rồi một trong những thánh vịnh này trong bữa ăn). Như vậy chúng ta khẳng định rằng bữa ăn từ biệt của Đức Giê-su đúng là một bữa ăn vượt qua. Trên đường (đêm trăng tròn), Đức Giê-su báo trước cho các môn đệ Ngài họ sẽ bỏ rơi Ngài. Thánh Mát-thêu, luôn bận lòng quy chiếu đến Kinh Thánh, nên trích dẫn dụ ngôn người mục tử của ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Dcr 11: 4-17, 13: 7). Nhưng ngay lập tức Chúa Giê-su an ủi các ông; Ngài loan báo với họ Ngài sẽ gặp lại họ ở Ga-li-lê sau khi Ngài sống lại. Đối với những người sắp chịu cơn thử thách và sa ngã, Đức Ki-tô tinh tế cho họ hiểu rằng Ngài sẽ bỏ qua chuyện đó, thế nên Ngài hẹn gặp họ rồi. Sau khi phân ly, sẽ có hội ngộ; đàn chiên sẽ được quy tụ lại. Thánh Phê-rô đầy nhiệt huyết cải lại. Đức Giê-su dứt khoát trả lời: nội đêm nay, thánh nhân sẽ chối Thầy ba lần. Thánh Phê-rô cam kết trung thành với Thầy và các môn đệ khác cũng vậy. Hoạt cảnh này rất là người. Khi để cho câu chuyện này được ghi lại trong các sách Tin Mừng, các Tông Đồ chứng tỏ sự khiêm tốn của mình. Mặt khác, một hoạt cảnh như thế cho thấy Đức Giê-su làm chủ và thấy trước các biến cố. Ngài biết điều gì sắp xảy ra, như Ngài biết Ngài sắp đi đâu. Cơn hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni (26: 36-46) Trên triền đồi Ô-liu có một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni, ở đó Đức Giê-su cùng với các môn đệ lui vào; nhưng Ngài tách riêng họ mà cầu nguyện một mình. Ngài cảm thấy buồn rầu và xao xuyến (động từ Hy lạp: “xao xuyến”, chứa đựng ý tưởng đau đớn cùng cực). Không cảm thấy yên tâm, Đức Giê-su đem theo với Ngài “thánh Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê”, tức là thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan. Đây là ba môn đệ đã được chứng kiến cuộc Biến Hình của Ngài. Vào lúc đó khi cho họ thị kiến về vinh quang của Ngài, Ngài đã chuẩn bị cho họ quang cảnh về sự yếu đuối của Ngài vào buổi chiều tối bi thảm này. An ủi mà họ đem đến cho Ngài không gì ngoài sự hiện diện, vì các môn đệ đều ngủ thiếp đi. Thánh Lu-ca nói một cách bao dung: “Các ông đang ngủ vì buồn phiền”. “Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện”, tức là Chúa Giê-su mặc lấy thái độ vâng phục, khiêm hạ và thiết tha. Trong Tin Mừng không gặp thấy ở đâu Đức Giê-su cầu nguyện thiết tha đến như thế. Đức Giê-su khẩn cầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này”. Chén là một hình ảnh Kinh Thánh để chỉ một sự thử thách, một vận mệnh đau khổ. Chúng ta không loại trừ rằng chén gợi lên chén máu lễ tế xóa tội (máu tế vật được đựng trong chén và tưới trên bàn thờ). “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”. Đức Giê-su không phó mặc cuộc chiến nội tâm mà đối tượng là vâng phục hay không vâng phục thánh ý Cha Ngài; Ngài là một với Cha Ngài; chỉ có một ý muốn duy nhất của Thiên Chúa, chỉ có một kế hoạch duy nhất của Thiên Chúa. Nỗi xao xuyến cùng cực của Đức Ki tô nhắm đến phương thế mà ý muốn duy nhất này phải được thực hiện. Cơn hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni không phải không nhắc nhớ cơn thử thách trong hoang địa ở đó cuộc tranh luận nội tâm nhắm đến cách thế Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng của mình (x. Lc 4: 12). Ba lần Chúa Giê-su trở lại bên các môn đệ của Ngài. Sự kiện vị Thiên Chúa làm người tìm sự nương tựa vào những anh em nhân loại của mình trong nỗi buồn phiền vô tận thật cảm động biết bao. Ngoài ra, Chúa Giê-su không muốn để mặc các môn đệ Ngài, vì họ cũng sắp trải qua sự thử thách và niềm tin của họ sẽ bị lung lay. Lần thứ ba, Ngài không đánh thức các ông. Ngài biết từ nay Ngài sẽ không thể tin cậy vào các ông. Đức Giê-su bị bắt (26: 47-56) Giu-đa biết rất rõ nơi này; hắn biết rằng Đức Giê-su thường đến đây. Thánh Mát-thêu nhắc lại thêm một lần nữa Giu-đa là “một người trong Nhóm Mười Hai”, để nhấn mạnh cử chỉ bỉ ổi và thói giả hình ở nơi nụ hôn của hắn. Kẻ phản bội được hộ tống bởi đám đông được trang bị gươm giáo gậy gộc, mà các thượng tế và kỳ mục sai đến; vì thế, cốt là những người lính canh Đền Thờ, và những thành phần bất hảo đã nhặt những gậy gộc trên đường. Những người này được sai đi bắt Đức Giê-su lại không biết Ngài, hơn nữa, vào đêm tối, họ có nguy cơ bắt nhầm người. Giu-đa đã cho họ một dấu hiệu: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!”. Theo lẽ thường tình, một môn đệ thường chào “thầy mình” theo cách này; nhưng lần này, Giu-đa đã cho nụ hôn của mình một ý nghĩa khác: sự phản bội. Đức Giê-su trả lời hắn: “Này bạn”. Cách xưng hô này đượm vẻ trách cứ nhưng nhẹ nhàng không công phẫn: “Bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi”. Tin Mừng Mát-thêu trích dẫn hai lần biểu thức trách cứ khởi đầu với: “Này bạn” như ông chủ vườn nho trả lời cho một người trong những người thợ làm vườn nho giờ đầu tiên: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20: 13), hay vua trả lời cho khách mời dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới: “Này bạn, làm sao bạn vào đây…” (Mt 22: 12). Tiếp đó, thánh Mát-thêu nêu lên một người môn đệ chém đứt tai tên đày tớ của thượng tế. Nhờ thánh Gioan, chúng ta biết người môn đệ này là thánh Phê-rô, và nhờ thánh Lu-ca, chúng ta biết đó là tai phải (những phần thân thể ở bên phải được xem như cao quý hơn ở bên trái). Đức Giê-su quở trách cách sử dụng bạo lực, Ngài không muốn các môn đệ Ngài bắt chước nhóm Nhiệt Thành; nhưng Ngài còn muốn cho họ hiểu rằng dù Ngài là chủ tể của mọi biến cố và nếu Ngài muốn các đạo binh thiên quốc có thể bảo vệ Ngài, nhưng Ngài tự ý nộp mình. Ở nơi sự phục tùng bên ngoài của Ngài, một ý định bao la được phơi bày ra, ý định ấy vượt quá mọi nhân vật của tấn thảm kịch. “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết”. Trước những người xét xử Ngài, Đức Giê-su sẽ không có bất kỳ một người biện hộ nào, bất kỳ nhân chứng nào để bênh vực cho Ngài, Ngài một thân một mình tiến bước vào cuộc Tử Nạn. Tuy nhiên hai môn đệ mon men theo Ngài từ xa xa cho đến dinh thượng tế Cai-pha, là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Và thánh Gioan sẽ hiện diện dưới chân thập giá. Đức Giê-su trước thượng hội đồng (26: 57-68) Đức Giê-su bị điệu đến trước Cai-pha, vị thượng tế đương nhiệm, có quyền tối thượng của Ít-ra-en. Chính quyền Rô-ma đã để cho người Do thái quyền độc lập tôn giáo và vài quyền điều hành. Vị thượng tế là lãnh tụ hàng giáo sĩ và là người chủ tọa Thượng Hội Đồng. Thượng Hội Đồng này gồm có: các thượng tế (vị thượng tế đương nhiệm, các vị thượng tế mãn nhiệm và các tư tế có trách nhiệm thường hằng trong Đền Thờ), các kỳ mục (những quý phái giáo dân, những người giàu có, những người đứng đầu các gia đình thế giá) và các kinh sư (những tiến sĩ luật, phần lớn giáo dân, thuộc tầng lớp trung lưu hay khiêm hạ. Họ được dân chúng kính trọng và đa số họ là những người Pha-ri-sêu). Thượng Hội Đồng thường hội họp ở Đền Thờ, nhưng vào đêm này, khuôn viên Đền Thờ đóng cửa; vì thế Thượng Hội Đồng nhóm họp trong tư dinh thượng tế Cai-pha. Số thành viên Thượng Hội Đồng tổng cộng 70 người, không tính vị thượng tế chủ trì hội nghị. Số người tối thiểu để buổi họp này có thể tiến hành là hai mươi ba thành viên. Chắc chắn phiên tòa xét xử Đức Giê-su có hơn số người này. Đức Giê-su cần thiết phải ra trước tòa án Do thái. Giả như Ngài đã bị giao nộp liền ngay vào chính quyền Rô-ma, Ngài sẽ được liệt vào số phận của những người kháng chiến, vì thế sẽ được vinh dự người ái quốc. Lời tuyên trước tiên đến từ giáo quyền Ít-ra-en để làm mất uy tín của Đức Giê-su. Thánh Mát-thêu nêu bật trò cười của phiên xử: “Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình”. Cuối cùng hai nhân chứng được đưa ra để xuyên tạc lời nói của Đức Giê-su. Trước đây Đức Giê-su đã nói: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2: 19), bây giờ, những chứng nhân tố cáo cố ý bóp méo lời Ngài: “Tên này đã nói: ‘tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa…’”. Sau khi giữ thinh lặng, Đức Giê-su long trọng khẳng định phẩm chất Thiên Sai của Ngài. Khi bị hạ nhục, Ngài công bố tính chất siêu việt của mình; Ngài tự nhận mình là “Con Người”. Đối với những kẻ tự phụ xét xử Ngài, Ngài công bố rằng chính Ngài là vị thẩm phán đích thật sẽ đến trên mây trời, mặc lấy uy quyền của chính Thiên Chúa. Bấy giờ, vị thượng tế bằng cử chỉ đóng kịch xé áo mình ra. Chung chung, việc xé áo là dấu chỉ tang chế. Nhưng vị thượng tế không có quyền xé áo để tang cho bất kỳ ai, dù cha hay mẹ đi nữa (Lv 21: 10); ông phải dành cử chỉ này cho những việc công nghiêm trọng, nhất khi thực hiện chức năng xét xử của mình, ông phải công bố sự phẩn nộ của mình. Lời tuyên án của Thượng Hội Đồng chỉ lời kết án về phương diện đạo đức, lời nói phạm thượng: “Hắn đáng chết!”. Chính quyền Rô-ma đã lấy đi quyền thi hành án tử khỏi tòa án Do thái này. Ngay từ phiên xử đầu tiên này, Đức Giê-su chịu những lời nhục mạ bỉ ổi. Làm thế nào chúng ta biết được những chi tiết và những diễn biến của phiên họp Thượng Hội Đồng này? Chẳng có gì là khó cả. Giữa những thành viên Thượng Hội Đồng có những người thiện cảm với Đức Giê-su, như ông Giô-xép thành A-ri-ma-thê và có thể ông Ni-cô-đê-mô. Vả lại, sau này, theo lời chứng của sách Công Vụ, một đám đông tư tế đón nhận đức tin vào Đức Giê-su (Cv 6: 7). Thánh Phê-rô chối thầy và hối hận (26: 69-75) Như các môn đệ khác, thánh Phê-rô đã chạy trốn vào lúc bắt Đức Giê-su. Đoạn, như thánh Gioan, ông đổi ý và cả hai cùng theo Ngài xa xa khi những người lính gác dẫn Đức Giê-su đi. Trong khi thánh Gioan quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế, còn thánh Phê-rô thì ở bên ngoài sân trong ở đó những lính canh đã nhóm một bếp lửa để sưởi ấm vì trời lạnh. Cả bốn Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh thánh Phê-rô chối Thầy. Vị lãnh tụ Giáo Hội đã để cho tình tiết chẳng có gì là vinh dự này truyền lại cho thế hệ sau và chỉ mình thánh nhân mới có thể cho những chi tiết, điều này thật đáng lưu ý. Sự khiêm hạ của thánh nhân, sự day dứt sâu xa về sự sa ngã của mình được diễn tả ngay tức khắc bởi những dòng nước mắt thảm thiết. Phải chăng mẫu gương của ông có thể là một bài học vào giờ của những cuộc bách hại đó sao? Thánh Phê-rô khiến chúng ta cảm động vì ngài là một vị thánh rất là người. Nỗi tuyệt vọng của ông Giu-đa (27: 1-10) Dường như một phiên tòa khác nữa đã xảy ra sau phiên tòa ban đêm. Thánh Mát-thêu nói: “Trời vừa sáng”. Theo luật, phiên tòa thứ hai này cần phải có. Khi bản án nghiêm khắc đã được tuyên án, hội đồng cần thời gian suy nghĩ. Theo pháp luật, kỳ hạn này phải là hai mươi bốn tiếng. Phải chăng thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô đã rút ngắn kỳ hạn này? Tất cả mọi biến cố đều được rút ngắn. Phiên tòa thứ hai này phải khẳng định hay giảm khinh, nhưng không được nghiêm khắc hơn. Đối với trường hợp Đức Giê-su, những thành viên Thượng Hội Đồng khẳng định lời tuyên án đầu tiên. Nhưng không có quyền thi hành án tử, họ giao nộp kẻ họ kết án cho chính quyền Rô-ma. Quả thật, phiên tòa tôn giáo được chuyển sang phiên tòa chính trị. Nếu chỉ vì tội phạm thượng chống lại Thiên Chúa Ít-ra-en, viên tổng trấn không thể tuyên án án tử hình Ngài được. Vì thế, một phiên tòa khác nữa bắt đầu. Giữa phiên tòa Do thái và phiên tòa Rô-ma, thánh Mát-thêu đưa vào tình tiết mà chỉ mình thánh ký tường thuật: Giu-đa treo cổ tự tử. Thánh Lu-ca nêu lên điều này trong sách Công Vụ, vào lúc chọn Mát-thi-a thay thế cho kẻ phản bội: những chi tiết khác biệt đáng kể. Thánh Lu-ca không xác định đây phải chăng là tai nạn hay tự tử (Cv 1: 18-19). Xem ra Giu-đa đã không lường được những hậu quả hành động phản bội của mình. Khi biết Thượng Hội Đồng kết án Thầy mình và giao nộp cho quan tổng trấn Phi-la-tô, hắn hối hận đến mức hoàn toàn tuyệt vọng. Hắn ném đồng tiền vào Đền Thờ rồi đi treo cổ tự tử. Thánh Mát-thêu cho thấy sự việc này ứng nghiệm lời Kinh Thánh khi trích dẫn bản văn Giê-rê-mi-a (Gr 18: 2-12) được phối hợp với bản văn Da-ca-ri-a (11: 12-13): “Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Ít-ra-en đã đặt khi đánh giá Người. Và họ lấy số bạc đó mà mua Thuở Ruộng Ông Thợ Gốm, theo những điều Thiên Chúa đã truyền cho tôi”. Tình tiết này được sử dụng như chuyển tiếp giữa hai phiên tòa; nhưng về phương diện thời gian, nó không được định vị vào lúc này. Các thượng tế không thể vừa có mặt tại dinh Phi-la-tô vừa ở tại Đền Thờ với Giu-đa. Đức Giê-su trước Phi-la-tô (27: 11-14) Quan tổng trấn Phi-la-tô đại diện chính quyền Rô-ma. Ông có một dinh cư ở miền Giu-đê. Thật ra, kể từ năm thứ sáu sau Công Nguyên, A-kê-la-út, con và kế vị Hê-rô-đê đại đế, bị chính quyền Rô-ma truất quyền cai trị miền Giu-đê. Chính quyền Rô-ma lo sợ những phong trào phản loạn dấy lên ở Giê-ru-sa-lem hay trong miền. Dinh thự quen thuộc của các tổng trấn Rô-ma là thành Xê-da-rê duyên hãi, thành phố lớn mới và thoáng mát. Nhưng vào những ngày đại lễ, đặc biệt lễ Vượt Qua có đông đảo dân chúng từ khắp nơi về mừng lễ, thì vị tổng trấn có mặt ở Giê-ru-sa-lem. Đó là lý do tại sao vị tổng trấn có mặt vào lúc đó ở Thành Thánh. Vì thế, Đức Giê-su mới có thể đối mặt trực diện với quan tổng trấn Rô-ma này. Ngay tức khắc, quan tổng tra hỏi Đức Giê-su trên bình diện chính trị: “Ông là vua dân Do thái sao?”. Chỉ duy tham vọng này, chính quyền Rô-ma mới có thể kết án tử Ngài, và đây là bản án mà Phi-la-tô sẽ truyền viết trên một tấm bảng đóng vào thập giá trên đầu Ngài: “Người này là Giê-su, vua dân Do thái”. Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài nói đó”. Đức Giê-su tránh trả lời trực tiếp: thay vì trả lời với đại từ ngôi thứ nhất, thì lại là đại từ ngôi thứ hai, nhưng câu trả lời này không kém phần khẳng định; Ngài đã trả lời theo cùng cách như vậy cho Giu-đa khi Giu-đa hỏi Ngài: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” “Chính anh nói đó”. Qua câu trả lời của mình, Đức Giê-su muốn cho Phi-la-tô hiểu: “Tôi đích thật là vua, nhưng không như ông nghĩ”. Các thượng tế và các kỳ mục tố cáo Ngài trước chính quyền Rô-ma. Những lời tố cáo này được thánh Lu-ca tường thuật: “Tên này sách động…ngăn cản nộp thuế cho hoàng đế Xê-da…lại còn xưng mình là Mê-si-a, là vua nữa” (Lc 23: 1-5). Nhưng Đức Giê-su im lặng khiến quan tổng trấn rất đổi ngạc nhiên. Chung chung những bị cáo, không có luật sư, tự mình biện hộ cho mình. Việc Phi-la-tô ngạc nhiên có thể bày tỏ sự bối rối trước mầu nhiệm của can phạm này mà người ta đã giao nộp cho ông và nhân phẩm của người này thì thật khác thường. Ân xá vào dịp lễ Vượt Qua (27: 15-25) Theo tập tục Do thái vào dịp lễ Vượt Qua, người ta phóng thích một tù nhân, chắc chắn để tưởng nhớ cuộc giải thoát khỏi Ai-cập mà người ta tưởng niệm vào ngày này. Phi-la-tô biết tập quán này; ông đề nghị cho dân chúng chọn giữa tên sát nhân khét tiếng và Đức Giê-su. Chúng ta có thể ngạc nhiên về quyền được ban cho dân chúng; đây không là trường hợp ngoại lệ. Ở Rô-ma, trong những cuộc giác đấu ở hý trường, việc dân chúng quyết định tha hay giết buộc hoàng đế phải chuẩn theo. Trong truyền thống Do thái, chúng ta gặp thấy việc dân chúng được dự phần vào sự quyết định được kể ra nhiều lần như vụ án của bà Su-san-na và hai kỳ mục trắc nết. Việc Ba-ra-ba được phóng thích nêu bật những trách nhiệm khác nhau: trách nhiệm của Thượng Hội Đồng xúi dục dân chúng chống lại Đức Giê-su; trách nhiệm của dân chúng để cho mình bị thao túng nên chọn tên sát nhân khét tiếng hơn Đức Giê-su; cuối cùng, trách nhiệm của Phi-la-tô, ông đã quá tin nên đã trù tính dân chúng sẽ bênh vực Đức Giê-su, nhờ đó ông thoát mình khỏi việc lên án một người vô tội. Nhưng ông đã không lường trước cuộc vận động của các thượng tế, cho dù ông biết rằng chính chỉ vì ghen tuông mà người ta đã nộp Ngài cho ông. Nhưng Phi-la-tô nhượng bộ dân chúng; ông muốn lấy lòng dân địa phương, đồng thời muốn tránh bị tố cáo lên chính quyền Rô-ma và về phương diện chính trị, bị xem là nhu nhược trước một kẻ tự cho mình là “vua dân Do thái”. Như vậy, quan tổng trấn đưa ra quyết định sau cùng, và chính ở nơi hình phạt Rô-ma mà Đức Ki-tô bị kết án: đóng đinh vào thập giá, chứ không hình phạt Do thái: ném đá. Tuy nhiên, trong câu chuyện này, thánh Mát-thêu tường thuật hai sự kiện xem ra chỉ là phụ, qua đó thánh ký muốn ghi nhận rằng lương dân, chứ không phải dân Do thái, đã nhận ra Đức Giê-su vô tội: bà vợ của Phi-la-tô, được báo trong giấc mộng, không muốn chồng mình kết án một người công chính. Mặt khác, chính Phi-la-tô rửa tay để nói rằng ông không nhúng tay vào máu của người vô tội này. Rõ ràng thánh Mát-thêu quy trách nhiệm về cái chết của Đức Giê-su nhiều hơn cho dân Do thái và các vị lãnh đạo của họ. Đức Giê-su chịu đánh đòn (27: 26) Đánh đòn tự nó là một hình phạt, tội nhân khó sống sót qua trận đòn. Đánh đòn xem ra cũng đã là một biện pháp đi trước việc đóng đinh vào thập giá; nó làm cho nạn nhân kiệt sức vì mất nhiều máu và vì thế rút ngắn cơn hấp hối rất đau đớn của nạn nhân trên thập giá. Đức Giê-su bị nhục mạ (27: 27-31) Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho quân lính thi hành án lệnh. Ấy vậy, chúng ta đã nhấn mạnh rồi, quân lính Rô-ma rất có ác cảm với dân chúng, nhất là những lần chúng phải đối đầu với dân chúng trong những cuộc bạo loạn. Đây là dịp để chúng trút ác tâm của chúng trên tên Do thái này được trao vào tay chúng. Tất cả quân lính ở dinh thự quan tổng trấn tụ lại để chế nhạo Đức Giê-su. Hoạt cảnh thật hung tợn và tàn nhẫn. Chúng kết một vòng gai nhọn rồi đội trên đầu Ngài; chúng khoắc cho Ngài một tấm áo choàng đỏ, chắc chắn áo choàng của quân đội Rô-ma mặc khi thắng trận, điều này lại càng nhục mạ Ngài thêm nữa. Đường Thập Giá (27: 32-44) Cuộc hành hình chỉ có thể diễn ra ở bên ngoài thành: khuôn viên thành là đất thánh không thể bị vấy bẩn bởi những thi thể tội nhân được. Đồi Sọ gần với cửa tây Giê-ru-sa-lem. Dù đoạn đường tương đối ngắn mà Đức Giê-su phải đi qua vai mang thập giá, nhưng Ngài yếu nhược bởi những cư xử thô bạo, vì thế quân lính trưng dụng một người qua đường, ông Si-mon người Ky-rê-nê, để vác đỡ thập giá với Ngài. Khổ hình thập giá là sáng kiến của người Rô-ma. Xi-xê-ron mô tả khổ hình này là “cái chết kinh khiếp nhất và tàn bạo nhất”. Người Rô-ma dành việc hành hình này chỉ cho tầng lớp hạ lưu nhất: những người nô lệ. Ta-sít gọi nó “khổ hình của những kẻ nô lệ”. Sau khi đã đóng đinh tay chân Ngài vào thập giá, “chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau”. Điều này phù hợp với luật Rô-ma: áo quần nạn nhân thuộc những lý hình. Đồng thời sấm ngôn của Tv 22 được ứng nghiệm: “Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (Tv 22: 19). “Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một bên phải, một bên trái”. Điều này tăng thêm sự nhục mạ đối với Đức Giê-su: Ngài bị liệt vào hàng những kẻ gian phi. Ở dưới chân Đồi Sọ, có một con đường dẫn đến Giê-ru-sa-lem. Chỗ hành hình này được chính quyền nhắm đến: cảnh tượng những nạn nhân hấp hối trong đau đớn phải có hiệu quả ngăm đe đối với khách bộ hành. Đó là lý do tại sao các thánh ký nêu lên những lời thóa mạ của những người qua đường. Trên thập giá, Đức Giê-su chịu những lời nhục mạ của ba loại người: người Do thái qua đường nhận ra Ngài; các thành viên Thượng Hội Đồng đến chứng kiến cuộc hành hình; sau cùng hai tên gian phi. Thánh Mát-thêu không nói về “người trộm lành” mà thánh Lu-ca nêu lên trong bài tường thuật của mình. Như vậy, Đức Giê-su thật sự bị bỏ rơi và thật sự phó nộp vào tay những kẻ thù Ngài. Đức Giê-su chết trên thập giá (27: 45-50) “Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất”. Việc bầu trời trở nên sầm tối vào giữa trưa thường xảy ra vào mùa xuân. Thánh ký đọc thấy ở đây một dấu chỉ, mà lối phóng dụ của ông diễn tả: cái chết của Đức Giê-su trên thập giá có một tầm mức hoàn vũ. Chúng ta không thể không nghĩ đến sấm ngôn của A-mốt, gợi ra ngày của Chúa là ngày tang chế của người con một: “Trong ngày ấy, Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt trời tối sầm giữa lúc ngày đang sáng…Ta sẽ làm cho đất này chịu tang như người ta chịu tang đứa con một và kết cục của nó như một ngày cay đắng” (Am 8: 9-10). Những sấm ngôn khác (Giô-en, Xô-phô-ni-a, vân vân) loan báo rằng ngày Chung Thẩm đi kèm theo những dấu chỉ vũ trụ (bóng tối, trận động đất, vân vân). Nhưng đây phải là ngày thịnh nộ. Thậm chí nếu giờ Đức Giê-su chết, theo mức độ nào đó, là giờ xử án rồi, nhưng thay vì giờ thịnh nộ lại là giờ tha thứ và xót thương. “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con”. Đây là tiếng kêu tuyệt vọng của người Công Chính đau khổ trong Tv 22: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị người đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: ‘Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giãi gỡ đi nào!’”. Đức Giê-su lập lại tiếng kêu của Người Công Chính bị người đời khinh bỉ. Sau khi đã nhận biết bị người đời bỏ rơi, Ngài cảm thấy chơ vơ cô quạnh tuyệt mức, ngay cả Cha Ngài đã bỏ mặc Ngài. Thánh ký đã trích nguyên văn tiếng A-ram, tiếng mẹ đẻ của Đức Giê-su: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”. Ấy vậy, chúng ta biết rằng theo truyền thống Do thái, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để giới thiệu Đấng Mê-si-a cho những tín hữu. Lời đùa cợt thì dể dàng và ác tâm: Ông Giê-su hấp hối này còn tin mình là Đấng Mê-si-a, hắn ta gọi ông Ê-li-a! “Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm”. Cử chỉ này được hiểu tốt hơn trong bản văn của Gioan ở đó Đức Giê-su vừa nói: “Tôi khát”. Thánh Mát-thêu ngụ ý rằng một người đưa ra lời chế nhạo: “Khoan đã, để xem ông Ê-li-a có đến cứu hắn không”. Cả bốn thánh ký đều đã giữ lại sự cố này vì Kinh Thánh soi sáng cho nó. Chúng ta đọc ở Tv 69 lời phàn nàn của một tôi trung, nạn nhân vì lòng nhiệt thành của mình đối với Đức Chúa: “Chúa biết rõ con bị người chửi mắng, lại mang vào thân tủi hổ với nhục nhằn; những kẻ thù con Ngài nhìn thấy cả. Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời. Nỗi sầu riêng mong người chia sớt, luống công chờ, không được một ai; đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu! Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69: 20-22). Theo thánh Mát-thêu, Đức Giê-su không uống giọt giấm nào, Ngài “kêu lên một tiếng lớn, rồi trút linh hồn”. Tiên báo về một thế giới mới (27: 51-54) Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất liệt kê danh sách về những dấu chỉ lạ lùng này, đi kèm theo cái chết của Đức Giê-su. Nét đặc trưng thứ nhất có ý nghĩa nhất: bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới đất. Đây là bức màn giăng lối vào tiền sảnh, hoặc bức màn phân cách thánh điện với phần cực thánh mà chỉ vị thượng tế mới có thể vào, một năm một lần để thực hiện nghi lễ Xá Tội. Dù bức màn nào đi nữa, ý nghĩa cũng là một: lối vào Thiên Chúa từ nay được mở ra cho hết mọi người, việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn độc tôn cho dân Ít-ra-en: cái chết của Đức Giê-su trải rộng cho hết mọi người. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa, đã thôi đóng vai trò của mình; đền thờ đích thật của Thiên Chúa sẽ là thân thể phục sinh của Đức Giê-su, như chính Ngài đã loan báo. “Đất rung đá vỡ”. Hình ảnh khải huyền mà thánh Mát-thêu mượn ở nơi những sấm ngôn liên quan đến Ngày của Chúa ở đó thế giới phải rung chuyển. Được Kinh Thánh nuôi dưỡng, thánh ký nhận ra ở nơi cái chết của Đức Giê-su ứng nghiệm các sấm ngôn này. “Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được chỗi dậy”. Thánh Mát-thêu nghĩ đến Is 26: 19 và Đnl 12: 2-3. Các vị thánh Cựu Ước, nhờ hy tế cứu chuộc của Đức Ki-tô, vào thánh thánh, tức là Giê-ru-sa-lem trên trời. Đây là “thị kiến thần học chứ không lịch sử”. Vả lại, thánh ký cẩn trọng xác định “Sau khi Chúa chỗi dậy”. Chính chỉ biến cố Phục Sinh mới đem lại thành quả tròn đầy cho hiến tế của Đức Ki-tô. Tại thánh Mát-thêu, những dấu chỉ vũ trụ này khiến các lính canh và viên đại đội trưởng Rô-ma kinh khiếp, trong khi tại thánh Mác-cô chính thái độ của Đức Giê-su làm xúc động một mình viên đại đội trưởng. “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa”. Chắc chắn viên đại đội trưởng đã nghe trong đám đông những tiếng xì xầm: “Người này cho mình là con Thiên Chúa”; ông lập lại diễn ngữ này, dù không nắm bắt hết tầm mức của nó, nhưng qua những gì ông đã chứng kiến, ông tin chắc rằng tội nhân này là một người công chính đặc biệt. Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng này là dấu hiệu tiên báo cuộc hoán cải của thế giới lương dân; đây là lời chứng đầu tiên về tính phổ quát mà bức màn trướng Đền Thờ xé ra làm đôi loan báo. Các Thánh nữ (27: 55-56) Thánh ký trích dẫn đích danh ba trong số những người phụ nữ trung thành này, từ đằng xa, họ chứng kiến cơn hấp hối của Đức Giê-su. 1. Trước hết, bà Ma-ri-a Mác-đa-la, người mà Đức Giê-su đã trừ bảy quỷ, từ đó, bà đã luôn luôn theo Ngài để phục vụ Ngài. 2. Bà Ma-ri-a, mẹ của các ông Gia-cô-bê hậu và ông Giô-xếp, hai người anh em họ của Chúa. 3. Bà mẹ các con ông Dê-bê-đê (ông Gia-cô-bê và ông Gioan). Như vậy, không chỉ thánh Gioan hiện diện dưới chân thập giá, nhưng mẹ của thánh nhân cũng có mặt. Sự hiện diện của các bà ở đây rất quan trọng vì lời chứng của các bà sẽ bổ khuyết cho lời chứng của nhóm Mười Hai vào những thời điểm mà các ông không có mặt. Các bà đã theo Đức Giê-su từng bước trên con đường thập giá, chứng kiến cái chết của Ngài trên thập giá và cuộc mai táng của Ngài. Các bà là những người đầu tiên chứng kiến ngôi mộ trống, dấu chỉ đầu tiên cuộc Phục Sinh của Ngài, và là những người đầu tiên gặp gỡ Đấng Phục Sinh và nhận sứ mạng của Đấng Phục Sinh là ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các ông. Mai táng đức Giê-su (27: 57-61) Theo tập quán Rô-ma, để tính ngăm đe có hiệu quả tốt, thi hài của tội nhân phải bị phơi bày trong nhiều ngày. Luật Do thái thì hoàn toàn khác: không được để mặt trời lặn trên thi thể của tội nhân. Đnl 21: 22 xác định, “xác nó không được để qua đêm”. Mặt khác, nếu không có ai can thiệp, thi hài của Đức Giê-su có nguy cơ bị ném vào một hố chung cùng với thi thể của hai tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài. Cuối cùng, theo cách tính của người Do thái, buổi chiều bắt đầu ngày sa-bát, ngày người ta kiêng cữ mọi công việc. Vì thế, phải vội vã, vì thời gian gấp rút. Ấy vậy, gần nơi hành hình có một ngôi mộ trống. Chính nơi ngôi mộ này mà ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê, chủ nhân của ngôi mộ này và là môn đệ của Đức Giê-su, nghĩ đến việc mai táng Đức Giê-su. Trong khi Đức Giê-su còn sống, ông không dám bày tỏ sự thiện cảm của mình, vì ông là một thành viên Thượng Hội Đồng. Lúc này, ông can đảm đứng ra xin Phi-la-tô được tháo thi thể Đức Giê-su khỏi thập giá để mai táng. Quan tổng trấn chấp thuận. Trước những biến cố này, chúng ta không thể không nghĩ đến lời của Đức Giê-su: “Nếu hạt giống không mục nát đi…nó không sinh nhiều hoa trái”. Ngày khi Đức Giê-su vừa tắt thở, những dấu chỉ kiểm chứng lời này: một lương dân công bố tính siêu việt của Ngài, dân chúng đến xem ra về vừa đấm ngực ăn năn (thánh Lu-ca kể sự kiện này), một người môn đệ thầm lặng vượt lên trên nỗi sợ hãi của mình, đích thân đến xin Phi-la-tô thi thể Đức Giê-su và mai táng. Vì thế, Đức Giê-su, vị sứ giả nghèo khổ này, trước đây vài ngày, thân thể Ngài đã được xức dầu thơm hảo hạng, nay an nghỉ trong ngôi mộ của nhân vật giàu có, đã được đục sẵn trong núi đá và hoàn toàn mới, như thử những dấu hiệu vinh dự này báo trước việc Ngài đi vào trong vinh quang của mình. Thực tế, ngôi mộ của những người giàu có là một căn phòng ở giữa có một ghế dài để đặt thi thể, bên ngoài có một phiến đá lớn lấp cửa mộ. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a, mẹ của ông Giô-xếp, “quay mặt vào mồ” quan sát việc mai táng. Chính hai bà này vào sáng sớm ngày thứ nhất sẽ là những người đầu tiên chứng thực ngôi mộ trống. Như vậy, ngày đau thương hoàn tất một cách trang nghiêm, giữa những tấm lòng lòng trung thành và yêu mến. Lính canh mồ (27: 62-66) Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất kể ra việc canh mồ. Ngôi mộ phải được canh giữ theo lệnh Phi-la-tô, đó là chuyện thường tình. Nhưng đàng này lại là sáng kiến của các thượng tế, điều này xem ra hy hữu. Người ta tự hỏi phải chăng vào thời thánh Mát-thêu biên soạn Tin Mừng sự tranh cãi giữa những người Do thái và những Ki tô hữu vẫn còn dai dẳng, những người Do thái buộc tội những người Ki-tô hữu đã trộm xác Đức Ki-tô để phao tin đồn là Ngài đã sống lại. Cuộc tranh cãi phải nhắm đến câu hỏi phải biết ai chịu trách nhiệm canh gác ngôi mộ. Ba tấn thảm kịch Ba tấn thảm kịch chồng chéo lên nhau trong cuộc Thương Khó của Đức Giê-su: trước hết, tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối, rồi đến tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người, sau cùng tấn thảm kịch của tội lỗi. 1. Dân Ít-ra-en từ chối Đức Giê-su đã không ngừng công bố một sứ điệp khó khăn; Ngài đã phá đổ những thành kiến, lên án chủ nghĩa duy luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, đoạn sự thù hận đã liên kết với nhau chống lại Ngài. Những người lãnh đạo tôn giáo đã không chấp nhận nhận ra ở nơi Ngài Đấng Mê-si-a, vì Ngài không đáp ứng hình ảnh mà họ tự mình tưởng nghĩ ra. Việc họ kiên tâm tiêu diệt Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ suy tính: Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết, nhưng do việc làm của họ, dân Ít-ra-en, dân được ký thác Lời Hứa, đã thôi không còn nữa. 2. Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người Khi đón nhận kiếp phàm nhân như chúng ta, Đức Giê-su đã chấp nhận thân phận tử biệt sinh ly của chúng ta. Ngài đã đảm nhận vận mệnh con người trong mọi chiều kích đau khổ khủng khiếp. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến Ngài phải hứng chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài sống. Số phận này ở trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18-19). Đây là cử chỉ yêu thương tận mức, Đức Giê-su đã muốn thuộc vào số những người bị tra tấn, những người bị hành hình, những người tử đạo, ngỏ hầu những ai phải chết trong những đau đớn cùng cực nhất, và những ai phải chịu đau khổ về thể lý cũng như luân lý, đều gặp thấy ở nơi cuộc Thương Khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Cũng phải ghi nhận rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có muôn vàn ân phúc. Ở đâu có những đau khổ được liên kết với Ngài, ở đó Ngài sẽ ban muôn vàn ân sủng. 3. Tấn thảm kịch của tội lỗi « Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Đức Giê-su cho cái chết của Ngài ý nghĩa này. Tuy nhiên, lời này đưa chúng ta vào mầu nhiệm: “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc”. “Người cứu chuộc” (goel) là người phục hồi phẩm giá cho một thành viên trong gia tộc phải lâm vào cảnh bần cùng, và chuộc lại nếu người ấy phải sa vào vòng nô lệ vì nợ nần. Đây là ý nghĩa đặc biệt của từ Hy-bá mà chúng ta dịch “Đấng Cứu Chuộc”. Dù được Kinh Thánh soi sáng, biết bao vấn đề gợi lên trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Thiên Chúa rất mục tốt lành, Thiên Chúa-Tình Yêu, Ngài đã không muốn nhân loại một mình phải gánh chịu mọi hậu quả tội lỗi của mình. Ngài đã sai Con Ngài đến để chia sẻ gánh nặng tội lỗi và xóa đi mọi vết nhơ của tội. Đó là lý do tại sao Thánh Giá là “vinh quang” của Thiên Chúa, như thánh Gioan nói.
50. Bạc bẽoTrong giây phút này, chúng ta thử chiêm ngắm cảnh tượng Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem một cách long trọng. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng lừa. Ngoài ra còn có nhiều người trải áo và rải cành cây trên lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính theo phong tục vùng Cận Đông. Tiếng reo hò vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Messia, là vua thuộc dòng dõi Đavid, Đấng sẽ đến để giải phóng Israel. Chúa Giêsu lặng lẽ để dân chúng tung hô. Ngài để cho lời tiên tri Giacaria được ứng nghiệm: - Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy hân hoan reo hò. Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Ngài là Đấng chính trực, toàn thắng, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa. Quả thực, Ngài là Vua, nhưng rồi đây, người ta sẽ biết cách thức làm Vua độc đáo của Ngài. Đó là qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá. Sau những giây phút tưng bừng và náo nhiệt này, Phụng vụ hôm nay còn để lại nơi chúng ta một nỗi buồn thấm thía, bởi vì trong thánh lễ chúng ta được nghe đọc bài thương khó. Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chính là để hoàn tất mầu nhiệm vượt qua, đem lại ơn cứu độ cho loài người. Từ hai sự việc trên chúng ta rút ra hai điểm chính yếu để suy nghĩ. Điểm thứ nhất đó là, theo thánh Gioan, đám đông đón rước Chúa hôm nay là những người đã nghe biết hay chứng kiến việc Ngài làm cho Lagiarô sống lại. Chắc hẳn những người này đã thực lòng tung hô Chúa như vị cứu tinh. Thế nhưng cũng chính đám người này, sau đó một vài ngày khi Ngài bị đem ra trước Philatô, thì không thấy một người nào dám lên tiếng bênh vực cho Ngài, thậm chí còn có những người kêu gào: - Đóng đanh nó vào thập giá. Đúng như tục ngữ Việt Nam đã diễn tả: - Bạc như dân, bất nhân như lính. Biết đâu chính chúng ta lại chẳng cư xử bạc bẽo như vậy với Chúa, bởi vì mỗi khi phạm tội, chúng ta cũng lớn tiếng kêu gào và đóng đanh Chúa một lần nữa vào thập giá. Điểm thứ hai, đó là phải can đảm và kiên nhẫn bước theo Chúa. Thực vậy, đi theo Chúa Giêsu trong một vài giờ rước lá là điều không khó khăn cho lắm, biết đâu còn là điều thích thú nữa. Kinh nghiệm cũng cho hay: Bước theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục bước theo Ngài khi Ngài bị mọi người bỏ rơi và kết án, điều đó khó hơn nhiều. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Đức Kitô thì chắc chắn có những lúc chúng ta nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mình không muốn đến. Con đường theo Chúa có những lúc vui và cũng có những lúc buồn. Nếu chúng ta đã có mặt trong đám đông tung hô Chúa khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cũng không được thiếu vắng khi Ngài vác thập giá và chịu chết trên đỉnh Canvê. Đừng sống theo kiểu: - Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai. Hãy trung thành bước theo Chúa và gắn bó mật thiết với Ngài ở mọi nơi và trong mọi lúc vì ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu thoát.
51. Lễ láLắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như hiểu được tội lỗi thật xấu xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của nó trong tâm hồn chúng ta. Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã hạ mình xuống như lời thánh Phaolô đã viết: - Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân phận tôi đòi, trở nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải chỉ là một kẻ lạ mặt, đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát lăm le biên phạt những hành động sai trái của chúng ta. Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp người và cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi cảnh huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu thương chúng ta như lời Ngài đã nói: - Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những kẻ nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói lên tình thương của Chúa. Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những ước vọng thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta. Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy nhìn vào thái độ khiêm nhường của Chúa Giêsu. Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho thân xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá giữa những đớn đau phải chịu. Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên Chúa, trong khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị, với danh vọng hay một tạo vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta. Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như thế này: - Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một trò cười. Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với Chúa như lời thánh Phaolô: - Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ tội lỗi đáng thương. Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương của Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy rửa tâm hồn mình nên trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội. Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
52. Cuộc Thương KhóWinston Churchill, cố thủ tướng Anh Quốc, đã chia sẻ kinh nghiệm riêng của ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô ủng hộ của dân chúng không phải là bằng chứng của sự thành công thực sự. Xưa kia, có một lần sau khi nói chuyện với một cử tọa khoảng 10 ngàn người hiện diện hoan hô thủ tướng, một người bạn đã hỏi: “Thưa thủ tướng, ngài không cảm thấy xúc động vì 10 ngàn người đã đến nghe ngài nói chuyện sao?” Churchill trả lời: “Không hẳn thực sự là như thế. Một trăm ngàn người sẽ đến nhìn khi tôi bị treo lên”. Hôm nay Chúa nhật lễ lá, chúng ta bắt đầu Tuần Thương Khó bằng việc cử hành việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Sách Giáo lý Công giáo số 272 đã viết: “Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự toàn năng của Ngài một cách hết sức mầu nhiệm trong sự tự nguyện chịu nhục… nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự ác”. Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá là “quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi vì sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người”. Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung với nhau trong cùng một căn nhà. Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và kính sợ Thiên Chúa. Còn người em bất lương, lừa lọc, gian manh, và phạm đủ thứ tội như cướp của, giết người. Người anh khuyên răn mãi mà người em vẫn chẳng thay đổi tính nết. Một đêm nọ người em chạy về nhà với quần áo dính đầy máu. Nó tự thú với người anh: “Tôi đã giết người”. Vài phút sau căn nhà bị cảnh sát bao vây và hai anh em đã biết rằng không còn cách nào trốn thoát được. “Tôi không có ý giết nó”, người em sợ hãi nói, “Tôi cũng không muốn chết”. Vào lúc ấy cảnh sát đang gõ cửa. Người anh bèn nảy ra ý tưởng: anh thay đổi quần áo của mình cho người em, và mặc lấy bộ quần áo còn đang dính đầy vết máu của người em. Cảnh sát xông vào nhà bắt người anh, bỏ tù, và chờ ngày bị kết án tử hình. Sau cùng, người anh đã hy sinh chết thế cho em mình. Qua câu chuyện hình sự về cái chết hy sinh của người anh vì thương em, chúng ta hiểu phần nào về sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu được diễn tả trong bài Thương Khó. Đây là câu chuyện của tình yêu, tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta. Thánh Phaolô đã viết: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người… Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”. 53. Cuộc Thương KhóChúa Giêsu rất thương xót những người đau khổ. Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa họ, và dạy mọi người phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ cho nhau. Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều xấu. Khi nghĩ về cuộc thương khó trong vườn Giệtsimani, Ngài đã bồi hồi, xao xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi máu. Thánh Kinh cho ta thấy căn nguyên của đau khổ là tội lỗi. Vì đau khổ là xấu nên con người phải tránh gây đau khổ cho nhau bằng mọi hình thức. Đồng thời phải tích cực xây dựng sự công bằng và bác ái. Rất nhiều đau khổ ở thế gian do con người, tội lỗi và sự bất công gây ra. Khi chấp nhận đau khổ để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một số nguyên tắc luân lý: 1. Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì hạnh phúc của người khác. Sự hy sinh phải nhằm vào những mục đích tốt, và những mục đích đó phải có một giá trị cao hơn sự thiệt thòi. Chúa Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu diệt tội lỗi theo đường lối của Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài đã phải đụng chạm với sức mạnh của chính quyền, xung khắc với sự tự do của con người. Và sự đau khổ đã đến như một hậu quả tất yếu vì sứ mệnh của Ngài. Ngài đã phải chọn lựa giữa việc chu toàn sứ mạng dù phải chấp nhận sự đau khổ và cái chết trên thập giá hơn là sự đào ngũ, chạy trốn của người hèn nhát. 2. Để sự đau khổ trở nên một giá trị cho người khác, nó phải là tự nguyện như chính Chúa Giêsu đã tự hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhân loại: “Không ai đoạt được mạng sống tôi, nhưng tôi tự ý hiến mạng sống mình”. Thiên Chúa ban cho con người tự do để cộng tác vào việc sáng tạo của Thiên Chúa. “Con người thường là những hợp tác viên vô ý thức của thánh ý Chúa, nhưng con người cũng có thể chủ ý hợp tác vào kế hoạch của Ngài bằng hành động, lời cầu nguyện, và bằng cả những đau khổ của mình”. 3. Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái khi nó hủy diệt chính con người của mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất bản tính Thiên Chúa của Ngài khi chết trên thập giá. Ngài chết trên thập giá nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, độ lượng, tha thứ và nhân từ. Đau khổ không làm Ngài rơi vào hận thù và tuyệt vọng. Chính tình yêu làm cho đau khổ trở thành giá trị. Con đường khổ giá từ Giêrusalem lên núi sọ chịu đóng đinh của Chúa Giêsu chính là con đường của tình yêu. Sách Giáo lý Công giáo số 609 viết rằng: “Khi gắn bó với tình thương của Chúa Cha đối với mọi người, trong trái tim nhân tính của mình, Chúa Giêsu “đã yêu thương họ đến cùng”, “bởi vì không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì những người mình yêu thương”. Bởi vậy, trong đau khổ và trong khi chết, nhân tính của Ngài đã trở thành dụng cụ tự do và tuyệt hảo của tình thương thần linh của Ngài muốn cứu vớt mọi người”. Bắt đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta nhìn vào thánh giá để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó: Nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của ta và sự hy sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của ta và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô. Quả vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa”. 54. Hoan hô- Đả đảoHôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa. Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình. Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội. Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có người đã viết như thế này: “Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng, ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu”. Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để lại cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục. Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây? Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô “vạn tuế” để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa. 55. Đau khổ của Đức KitôTrong thời đệ nhị thế chiến, có một linh mục Hoà Lan bị Đức quốc xã bắt và đem về trại tập trung ở Dachau. Tại đây ngài bị nốt trong một chiếc cũi. Bọn lính mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như con chó mỗi lần chúng đi qua. Cuối cùng ngài đã chết vì bị tra tấn. Bọn lính đâu có ngờ giữa cơn thử thách, ngài vẫn tiếp tục viết nhật ký, qua đó chúng ta biết sở dĩ ngài có thể chịu đựng được mọi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu đã từng đau đớn như thế trước ngài. Trong một lời kinh, ngài đã bày tỏ cùng Chúa: Lạy Chúa, sẽ không có nỗi đau đớn nào làm con ngã gục bởi vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa. Con đường thập giá Chúa đã đi qua giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan. Vậy trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã phải chịu đựng những khổ đau nào? Trước hết là nỗi đớn đau trong tâm hồn. Thực vậy, tại vườn Cây Dầu, Ngài đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cơn thử thách sắp tới. Còn gì đau đớn cho bằng khi bị những người thân yêu của mình bỏ rơi và phản bội. Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đớn đau này khi bị Giuđa bán đi với giá 30 đồng bạc, khi bị Phêrô chối bỏ chỉ vì một vài câu hỏi vu vơ, khi bị các môn đệ bỏ rơi. Và điều quan trọng hơn nữa, đó là Ngài đã mặc lấy thân phận tội nhân, và cảm thấy như bị chính Chúa Cha từ bỏ. Bởi đó, trên thập giá Ngài đã phải thốt lên: Lạy Cha, sao Cha lại bỏ con? Có lẽ mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm về vấn đề này, khi chúng ta bị những người trong gia đình, trong khu xóm, những người chúng ta yêu mến và kính trọng phản bội. Tiếp đến là những đau khổ ngoài thể xác. Ngài đã bị đánh đập, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Dĩ nhiên chúng ta chưa nếm thử những đớn đau khủng khiếp như thế, nhưng ít ra chúng ta cũng đã trải qua những đau khổ ngoài thân xác, chẳng hạn như khi chúng ta đau yếu bệnh tật. Có một bác sĩ vì chữa lành thương tích cho một thành viên chống đối chính phủ, nên đã bị cảnh sát bắt giữ và bị tra tấn dã man. Trong lúc bị tra tấn như vậy, vị bác sĩ này cảm nghiệm được một cách mơ hồi nỗi đau đớn Chúa Giêsu đã từng chịu, cũng như thấy được rằng Chúa luôn ở bên cạnh và giúp đỡ để ông được kiên vững. Còn chúng ta thì sao? Nói theo kiểu nhà Phật thì đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta là một cách bèo trôi dạt trên đó. Đúng thế, đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Hay nói cách khác, đã là người thì ai cũng phải đau khổ. Thoạt sinh ra thì đã khóc choé, đời có vui sao chẳng cười khì. Trong những giây phút đớn đau và tăm tối, chúng ta hãy nhìn lên thập giá và chúng ta sẽ thấy được rằng chính Chúa cũng đã đớn đau trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần. Từ đó, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ để biết chấp nhận mọi đớn đau gian khổ, như góp một phần nhỏ bé của chúng ta vào thập giá Đức Kitô.
56. Người là Thiên Chúa – Mt 21,1-11Trong khi dân chúng tin theo và tung hô Chúa, thì bọn biệt phái lại hậm hực tức tối. Tại sao thế? Vì Chúa đã đảo lộn mọi ý nghĩ trong đầu óc họ. Vì Chúa đã vạch trần bộ mặt đạo đức giả của họ, và Chúa đã phơi bày những tính hư tật xấu của họ. Họ nắm tay chống đối Người, và bằng mọi cách phải giết được Người. Chúa Giêsu biết rõ điều ấy, nhưng Người vẫn đi con đường của Người, dù phải đau khổ, dù phải chết chóc. Qua đó, chúng ta nhận ra Người thực là Thiên Chúa. Đúng thế, Người đã giảng dạy như là Thiên Chúa. Bọn biệt phái luôn rình rập, gài bẫy để bắt lỗi Người, nhưng Người đã nói thẳng với họ: Ai trong các ngươi có thể tìm thấy nơi Ta một khuyết điểm, một sơ hở nào? Liệu có một nhà hiền triết, một bậc quân tử, một đấng thánh nhân nào nói được như vậy chăng. Hơn nữa, Người còn nói với chúng ta bằng tất cả uy quyền của Thiên Chúa. Người truyền lệnh, Người kết án, Người chỉ cho thấy con đường cứu độ: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Nếu các con tuân giữ lời Thầy, các con sẽ không phải chết. Tiếp đến, Chúa Giêsu đã hành động như là Thiên Chúa. Việc làm của Người đã chứng thực cho những lời Người nói. Người chữa lành những kẻ đau yếu, cho kẻ chết sống lại, dẹp tan giông tố, tha tội cho kẻ vấp phạm. Đó là những việc làm mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền và có thể thực hiện được mà thôi. Sau cùng, chính Người đã xác quyết về bản tính của Người. Bề ngoài, Người là một người như chúng ta, nhưng thực sự Người lại là Thiên Chúa. Điều đó làm cho bọn biệt phái lấy làm chướng tai gai mắt. Nhưng Chúa Giêsu đã chuẩn bị tâm hồn các tông đồ cũng như dân chúng đón nhận sự mạc khải ấy. Ngay từ đầu Người đã không nói thẳng ra Người là Thiên Chúa. Nhưng dần dần, qua những lời giảng dạy, qua những phép lạ cũng như qua cuộc sống thánh thiện của Người, những người thiện chí sẽ phải đặt vấn đề. Người không phải là một kẻ tầm thường như chúng ta. Rồi từ từ Người làm cho họ xác tín Người là Con Thiên Chúa. Ngày kia Người đã hỏi các tông đồ: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô đã trả lời: thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng số. Và Chúa Giêsu đã nói: Không phải máu thịt đã tỏ lộ cho con điều ấy, nhưng chính là Cha Ta ở trên trời. Để thưởng công cho niềm tin tưởng ấy Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh. Khi tranh luận về cụ tổ Abraham, Chúa Giêsu đã nói với bọn biệt phái: Trước khi Abraham sinh ra thì đã có Ta. Đây cũng là lời xác quyết về bản tính Thiên Chúa của Người. Lời này khiến bọn biệt phái tức tối, muốn ném đá Chúa, nhưng Người cứ giữa chúng mà đi vì giờ Người chưa đến. Chúa Giêsu có thể tiêu diệt những kẻ phạm thượng, nhưng Người không muốn, cũng như trên thập giá, Người có thể trừng trị những tên lý hình hạo báng, nhưng Người đã không hành động, Người muốn tình thương hơn là sự thù hận. Nhưng Người đã sống lại, ra khỏi mồ, và Người sẽ trở lại để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Lúc bấy giờ chúng ta mới thấy rõ quyền năng và vinh quang của Người. Ngày tươi sáng và hạnh phúc sẽ được dành cho những ai trung thành phụng sự Người.
57. Lễ lá – Mt 21,1-11.Qua phần phụng vụ hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm. Trước hết Chúa nhật Lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem cách long trọng. Biến cố này cho chúng ta thấy giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ phải bước vào cái chết để đem lại ơn cứu độ và sự phục sinh, như hạt lúa mì cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm và kết trái. Trước đó, nhiều lần những người Do Thái chống đối lập mưu giết hại Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến, đồng thời nhiều lần dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng giờ Ngài cũng chưa đến. Còn lúc này giờ ấy đã đến và đã đến thật rồi. Tiếp đến, với Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta tôn kính Đức Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài đồng ý để dâng chúng tung hô vạn tuế Ngài là Vua: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Và cũng chính vì phong cách vương đế này mà Ngài đã bị kết án tử hình. Bản án của Ngài được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, Latinh và Hy Lạp: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái. Chính Ngài đã xác quyết trước toà án Philatô: Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi. Sở dĩ như vậy vì vương quốc của Ngài là vương quốc của yêu thương và an bình, vương quôc của sự sống và chân lý. Sau cùng, Chúa nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết về giá trị của những đau khổ. Thực vậy, sống trên đời là phải đối đầu với khổ đau, bởi vì Lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Ngài trên đỉnh Canvê. Khi chấp nhận vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng không phải là vác đi trong than khóc, mà vác đi trong hy vọng. Bởi vì với Chúa Giêsu, thập giá và phục sinh không thể tách lìa nhau. Với Chúa Giêsu, đau khổ và sự chết không đẩy con người vào ngõ cụt, mà trái lại đem con người tiến bước trên con đường dẫn tới ngày phục sinh. Điều nghịch lý của Lễ Lá, đó là vị vua của chúng ta đang tiến lên, vị vua đã bênh vực nhân vị, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người, thế nhưng chính vị vua ấy lại thu tích tất cả những đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người vào trong chính bản thân của mình để chết đi một lần thay cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào cõi phúc trường sinh. Và đó cũng chính là niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục sinh.
58. Cô đơn và im lặng.Qua bài thương khó vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nỗi cô đơn và sự im lặng của Chúa Giêsu. Trước hết là nỗi cô đơn. Càng về cuối đời, Chúa Giêsu càng bị lẻ loi cô đơn. Dân chúng và những người thân đều từ bỏ Ngài và giờ đây, cả các môn đệ cũng từ bỏ Ngài. Chúa Giêsu cô đơn trong vườn Cây Dầu. Ngài lại càng cô đơn hơn nữa trong lúc bị bắt bởi vì các môn đệ đều trốn chạy. Trước thượng hội đồng, Chúa Giêsu chẳng có một ai để bênh vực mà chỉ toàn thấy những kẻ cáo gian Ngài. Trong khi đó, ở bên ngoài, ông Phêrô đã chối Chúa. Ngay cả Đức Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi Ngài, chỉ còn lại mấy người phụ nữ trung thành, nhưng họ cũng chỉ đứng tự đàng xa. Tiếp đến là sự im lặng của Chúa Giêsu. Trước toà án phần đạo, Chúa Giêsu chỉ trả lời vị thượng tế có một lần. Trước toà án phần đời, Chúa Giêsu chỉ trả lời Philatô có một lần. Và trên cây thập giá, theo sự ghi nhạn của thánh Marcô, Chúa Giêsu cũng chỉ thốt lên có một lời. Thế nhưng sự cô đơn và im lặng của Chúa Giêsu đã đứa tới một hậu quả thật bất ngờ, đó là lời tuyên xưng của viên đội trưởng Lamã: Quả thực người này là Con Thiên Chúa. Với lời tường thuật đơn sơ và mộc mạc, thánh Marcô cho chúng ta thấy: Chân lý tự bản chất vốn giản dị, chứ không màu mè phức tạp. Không phải cứ nói nhiều, nói hay mà người ta có thể làm sáng tỏ chân lý. Cũng như không phải cứ sơn phết cho thật màu mè mà người ta tạo được một bức hoạ tuyệt vời. Chúng ta sẽ lầm khi nghĩ rằng với những sách vở và những bài thuyết trình sâu sắc, hấp dẫn với những công trình khảo cứu hoàn bị, chúng ta có thể đem đến cho mọi người tất cả những câu trả lời về Đức Kitô. Không. Đức Kitô không phải là một mớ những lý thuyết, những tư tưởng, nhưng Ngài là một con người mà chúng ta cần phải gặp gỡ, phải chiêm ngưỡng và phải tìm hiểu để rồi dần dần khám phá ra những châh lý về Ngài. Từ đó chúng ta đi tới một kết luận cụ thể như thế này. Đức Kitô không phải chỉ là một cái gì chúng ta nói, chúng ta rao giảng, chúng ta tuyên xưng ngoài môi ngoài miệng, nhưng Ngài cần phải được bén rễ sâu trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta. Điều đó có nghĩa là chúng ta có bổn phận phải sống đức tin hay mói một cách cụ thể hơn, chúng ta có bổn phận phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng Ngài bằng hành động và bằng cả cuộc đời chúng ta.
59. Đám đông dưới chân Thập GiáMột trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét... tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu. Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của bức tranh). Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá... Thưa anh chị em, Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000 năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá. Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài... Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta. Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn... Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.
60. Vui lòng vâng phục Thánh ý ChúaSuy Niệm: Với Lễ Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong Tuần Thánh, chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Dầu cho với cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt người đời, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, là một việc có tính cách gây rối chính trị, vì đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê đang làm vua. Nhưng Chúa Giêsu, Người biết rõ việc Người làm. Trước mặt Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Vua nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này". Vậy Phụng vụ Lễ Lá có thể gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa. Trước tiên Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Và cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến. Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: "Hoan hô chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời". Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp, "Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái". Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi". Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng. Với ý nghĩa thứ ba, Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại. Hôm nay trong cái nghịch lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Đó là niềm hy vọng của chúng ta. Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ tìm cách tế nhị giúp cho một người đang gặp khó khăn vật chất hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại được niềm hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi", chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng vâng phục thánh ý Chúa, dầu lắm khi chúng ta không hiểu được tại sao.
61. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung ThànhPhụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay có thể chia thành hai phần: Phần thứ nhất là nghi thức làm phép và rước lá; Phần thứ hai là thánh lễ như thường lệ nhưng nội dung các bài đọc mang vẻ trầm buồn, nhất là bài thương khó kể lại cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Phần thứ nhất, nghi thứ làm phép và rước lá. Trong phần này của chúa nhật năm A, chúng ta nghe đọc đoạn Tin mừng theo Thánh Mathêu, tường thuật lại việc Đức Giêsu vào thành thánh Giêrusalem. Quang cảnh rất hoành tráng. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Dân chúng đón tiếp một cách nồng hậu. Tin mừng cho biết: “Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: Hoan hô con vua Đavit! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mt 21,8-9). Có thể nói, đây là một cuộc khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem của Đức Giêsu, toàn dân ủng hộ, không thấy một sự chống đối nào. Phần thứ hai, phụng vụ cho chúng ta nghe ba bài đọc liên quan đến cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, đây là bài ca thứ ba về người tôi tớ đau khổ. Tác giả cho biết, người tôi tớ bị bách hại, phỉ nhổ, tra tấn và bỏ rơi nhưng vẫn nhịn nhục, chịu đựng, trung thành và tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa: “Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi…” (x. Is 50, 6-7). Bài đọc II, trích thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô cho chúng ta biết Đức Giêsu chính là người tôi tớ mà tiên tri Isaia tiên báo: “Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người.” (x. Pl 2, 6-11) Bài Thương khó được Thánh Mathêu tường thuật lại cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Đây là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Qua cuộc khổ nạn này, Ngài đã để lại cho chúng ta nhiều bài học cao quý, xin được đơn cử một số bài học sau đây: Bài học thứ nhất: Sự can đảm, quảng đại, hy sinh vì người khác. Ngài đã chấp nhận muôn vàn đau khổ vì yêu thương nhân loại chúng ta. Đây là bằng chứng của một tình yêu cao quý. Vì,”không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13). Bài học thứ hai: Sự tha thứ. Ngài tha thứ cho Giuđa là kẻ nộp Ngài. Ngài tha thứ cho Phêrô là kẻ chối Ngài. Ngài tha thứ cho các môn đệ là những người thân tín nhưng đã bỏ trốn khi Ngài gặp nạn. Ngài tha thứ cho kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá. Ngài tha thứ cho kẻ trộm cướp bên phải và cho anh ta được vào Thiên đàng với Ngài ngay ngày hôm ấy. Bài học thứ ba: Sự vâng phục Thánh ý Thiên Chúa Cha. Khi cảm thấy khó có thể vượt qua nỗi cô đơn, đau khổ, Đức Giêsu không tránh né nhưng phó thác và vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi thì xin vâng Ý Cha.” (Mt 26,39 và 42). Đúng như Thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc II: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,8) Ngoài ra, khi suy niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu còn giúp chúng ta hiểu hơn về ý nghĩa của đau khổ, từ đó chúng ta biết can đảm hơn để vác thập giá của mình và sẵn sàng nâng đỡ thập giá của tha nhân. Ở Bỉ, trong trận thế chiến thứ nhất, một trận đánh khốc liệt vừa xảy ra. Trong một nhà thờ đã được biến thành nhà thương, hàng trăm thương binh nằm la liệt. Bàn thờ được biến thành bàn mổ. Thiếu thốn thuốc men, người ta phải giải phẫu các thương binh mà không có thuốc tê hay gây mê. Một thương binh đang được giải phẫu, trong một khắc đồng hồ, anh ta phải chịu “tử đạo”, tay nắm chặt, mồ hôi đầm đìa, nhưng không một lời than trách hay rên la. Sau khi hoàn tất ca phẫu thuật, bác sĩ hỏi anh: “Tại sao anh có thể chịu đựng được như thế? ” Anh trả lời: “chính vì tôi đã nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh. Ngài đã chết không một tiếng rên la vì tội lỗi nhân loại. Cho nên, tôi cũng không thể than khóc vì những đau khổ mà tôi có thể chịu để đem lại hạnh phúc tự do cho người khác.” Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn để chịu chết trên cây thánh giá vì yêu thương nhân loại chúng con. Xin cho mỗi người chúng con cũng biết chấp nhận những đau khổ trong cuộc sống để cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại. Amen. 62. Chúa Giêsu lên Giêrusalem(Fx. Phạm Đình Phước SDB - viết dựa theo Bênêđictô XVI, Gesù di Nazaret. Dall'ingresso in Gerusalem fino alla risurrezione, LEV, Città del Vaticano 2011, pp.11-21) Tin Mừng thuật lại cho chúng ta rằng vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa lý, có thể nói rằng chuyến đi này là một hành trình đi lên theo nghĩa đen. Quả vậy, biển Galilê thấp hơn mặt nước biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước biển 460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu có độ cao gần 760 mét. Đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là "thánh giá", nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, "yêu mến cho đến tận cùng" (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần nhất của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và dự lễ Vượt Qua của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng với nhóm Mười Hai, nhưng dần dần trở thành một đoàn người hành hương đông đảo. Mát-thêu và Mác-cô thuật lại cho chúng ta rằng có "đoàn lũ đông đảo" theo Chúa Giêsu từ thành Giê-ri-cô. Bên vệ đường của cuộc hành trình có một người mù ăn xin tên là Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên anh xin Chúa thương xót và chữa lành anh: "Lạy Thầy, xin cho con được thấy", và Chúa Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêôgia nhập đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10, 48-52). Từ làng Betphagiê và Bêtania khi đến núi Cây Dầu nơi mọi người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu sai hai môn đệ và bảo hai ông: “Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay" (Mt 21, 2 -3). Thánh Mác-cô thêm một chi tiết thú vị là “con lừa chưa ai từng cỡi” (Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri Da-ca-ri-a: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Dcr 12, 15). Việc Chúa Giêsu tiến vào thành “trên lưng lừa” cho thấy Chúa Giêsu diễn tả vương quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong bình an của Thiên Chúa. Việc “mặc áo choàng” mang ý nghĩa vương đế trong truyền thống Israel (x. 2 V 9, 13). Các môn đệ đã biểu lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu “lên ngôi”. Đông đảo khách hành hương thấy nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo choàng xuống trải xuống mặt đường, chặt nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy và tung hô: “Osanna, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11, 9; Tv 118, 25). “Osanna” có nghĩa là “xin cứu giúp chúng con”. Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều, vị tư tế đi xung quanh xông hương bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời đó để cầu xin mưa thuận gió hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem, tay vừa phất các cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi các dịp lễ như thế biến thành những lễ hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng trở thành lời reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày lễ, khách hành hương diễn tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập vương quyền trên Israel. “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” là lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành Thánh hay ngay cửa Đền Thờ. Nhưng câu này còn mang một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118 "Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em", là lời cầu chúc của các thượng tế dành cho khách hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây, lời chúc lành cho khách hành hương trở thành lời ngợi khen Chúa Giêsu, Đấng nhân danh Chúa mà đến: Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân đang mong chờ và Đấng được loan báo qua mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu được tôn vinh ngay của vào thành Giêrusalem; thánh Mát-thêu còn ghi lại rằng "khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động xôn xao". Các thánh sử cũng cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa không phải là những người dân trong thành, mà là những người hành hương, những người cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ cùng với Chúa bước vào thánh thánh Giêrusalem. Khi vào đền thánh, ngay sau việc thanh tẩy đền thờ, thánh sử Mát-thêu tường thuật thêm hai chi tiết khác. Trước hết, Chúa Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc và “có những kẻ mù loà và què quặt đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã chữa họ lành”. Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng yêu thương và quyền năng của Ngài là quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô hữu về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Hơn nữa, Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương trong đền thờ: “Hoan hô Con Vua Đavít” (Mt 21, 15). Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa họ về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và để gặp Thiên Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ và với một tâm hồn tươi trẻ. Thánh thi Benedictus được đưa vào phụng vụ như muốn nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá không thuộc về quá khứ. Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận Chúa Giêsu đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh rượu. Giáo Hội chào đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa cộng đoàn. Mỗi kitô hữu hãy đón chào Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể như Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón chào Đấng hiện diện luôn mãi và Đấng sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách hành hương vào đến thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa trong Thánh Thể. Với lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào tuần thánh, với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật Thánh. Phụng vụ trong những ngày này thuật lại sự thương khó, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kể cả những người, cho dẫu không biết Thiên Chúa, sống với lòng ngay thẳng và chân thật. Con người được dựng nên để sống và sống để yêu mến: yêu mến Chúa và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem lại yêu thương cho con người. Thiên Chúa cho con người được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, để cho họ “được sống dồi dào” và sống viên mãn trong tình yêu. 63. Lựa chọn – Mt 26, 14- 27. 66Khi nhìn vào bức tranh ở Bêtania ta thấy cái gì? Ta gặp thấy đó là một quang cảnh ở trong một bầu khí hết sức nặng nề. Nó nặng nề bởi có một cuộc âm mưu chống lại Chúa Giêsu của nhà cầm quyền Do Thái, giờ đây bầu khí lại càng năng nề hơn khi Giuđa lại đóng góp thêm yếu tố quyết định phản bội Thầy mình, như với tư cách kẻ thực thi lời Tiên Tri này, Giuđa sẽ tìm "cơ hội để nộp Ngài". Thật ra Giuđa hoàn toàn có thể chọn lựa làm hoặc không và chính sự chọn lựa là điều rất quan trọng trong cuộc sống nên: 1. Chọn lựa có mục đích và đi đúng hướng là điều cần thiết Qua hình ảnh của Giuđa trong đoạn Phúc Âm này đã giúp cho tôi một bài học là phải xác định chính xác cho mình một con đường, lối hướng đi và hướng đi đó phải có một mục đích đúng là điều cần thiết. Khi nhìn lại con đường của Giuđa chúng ta sẽ thấy, Giuđa cũng có một chọn lựa, một hướng đi, có mục đích và có lập trường rõ ràng đó chứ! Thế nhưng tại sao Giuđa đã bị thất bại, để rồi đi đến một sự tuyệt vọng như đang rơi xuống vực thẳm mà không thể cứu vãn được, vì đã mang tiếng là bán đứng Thầy mình và vô tình đưa Thầy mình đi đến cái thật đau thương. Rõ ràng là Giuđa thất bại, thất bại vì Giuđa có lẽ tham tiền mà bán rẻ Thầy mình với giá 30 đồng bạc là cái giá của một người nô lệ theo luật đã định theo sách (Xh 21, 32), cũng có khi Giuđa còn mang một tư tưởng chính trị muốn cùng Thầy Giêsu bạo động dấy lên chống lại sự đô hộ của Đế quốc Rôma. Cuối cùng Gioan thực hiện theo ý riêng và chọn một hướng đi hết sức sai lầm của mình. Thế nhưng, cái sai lầm đưa đến chỗ tuyệt vọng lớn nhất của Giuđa là không khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình để mà ăn năn sám hối như trong dân gian có câu: "đã phóng lao thì phải theo lao" bất chấp mọi hậu quả. Còn thái độ của các môn đệ khác thì sao! Các vị đang chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua cho Thầy mình: "Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu". Xem ra có vẻ các ngài rất ân cần, bận rộn lo lắng, khiêm tốn, cởi mở, luôn luôn tham khảo ý kiến và làm theo ý muốn của Thầy Giêsu. Nhưng cuộc vui đó có lẽ như khựng lại, vì trước khi bữa ăn đã bắt đầu. Một lần nữa Chúa Giêsu lại loan báo: "Một trong các con sẽ nộp Thầy". Chúa Giêsu hẳn có thể mường tượng được khi nghe câu trên, tất cả mọi người trong bàn ăn đều: "thưa Thầy có phải con không?". Chính lúc nầy đây nỗi buồn sẽ xâm chiếm các môn đệ bởi vì lời tiên báo này tố cáo quá rõ lòng trung thành mỏng manh của họ đồi với Thầy mình. Nhìn vào thái độ Chúa Giêsu ta thấy gì! Ngài có ý sai các môn đệ chuẩn bị lễ Vượt Qua là để Thầy trò cùng nhau sum họp lần cuối: "thời gian của Thầy đang đến gần". Nhưng cũng có thể là dấu chỉ để Chúa Giêsu thiết lập Phép Thánh Thể. Đây là thời gian gấp rút của Ngài đang đến gần, đó là thời gian Ngài sẽ phải chết để đổi mới ý nghĩa của biến cố Vượt Qua của người Do Thái, một phần là để nhắc lại kỉ niệm cuộc giải phóng khỏi ách Ai Cập, một phần là nhắm đến cuộc giải phóng loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Và ngày hôm nay lễ Vượt Qua ấy như của lễ hy tế của Chúa Giêsu đang còn tiếp diễn mãi trên bàn thờ cho đến ngày tận thế. 2. Khi đặt mình trước Thánh Thể Chúa tôi có dám chấp nhận và từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa? Tôi có dám tự hỏi như xưa các môn đệ hỏi Chúa: "Chúa muốn con chuẩn bị cho Chúa ăn lễ Vượt Qua ở đâu?". Tức câu hỏi này ám chỉ một ý nghĩa mỗi ngày là một của lễ hy tế, hy tế của sự ra đi dấn thân, ra đi trong sự tin tưởng phó thác, mang theo một tư thế biết chấp nhận mọi gian truân thử thách cùng đồng lao cộng khổ như Chúa Giêsu đã chịu. Dấn thân trong chấp nhận và từ bỏ. Chấp nhận con người mình là yếu kém, là giới hạn, là mỏng dòn, đôi khi có thể gặp thấy trước mắt là những thất bại. Đồng thời dám từ bỏ những ý riêng, tính ích kỷ, hay ghen ghét, bỏ những gì làm cản bước chân tôi đang đi theo Chúa Giêsu. Hãy cố gắng tập cho tôi có những nhân đức biết cởi mở, biết bàn hỏi theo ý chung trong tình huynh đệ và nhất là phải biết bàn hỏi và thực hiện theo thánh ý của Thầy mình là Giêsu. 3. Tôi cần nhận ra lòng nhân từ vô biên của Chúa Khi nào còn trung thành gắn bó với Thánh Thể Chúa, thì tôi càng nhận ra lòng nhân từ vô hạn của Chúa. Chỉ có nơi Thiên Chúa mới có thứ tình yêu không biên giới ấy. Cụ thể nơi Chúa Giêsu đã thấy trước sự phản bội của Giuđa nhưng Ngài vẫn tôn trọng sự tự do cho Giuđa, cũng có thể hiểu rằng Chúa Giêsu vẫn còn một chút hy vọng để cho Giuđa còn kịp sám hối quay trở lại với Chúa. Về phía tôi, khi thầm đấm ngực cúi đầu trước Thánh Thể Chúa, tự nhận mình là Giuđa kẻ bán Chúa qua những tính hư tật xấu của mình, khi đó tôi ngước lên nhìn Chúa và Chúa nhìn tôi như Ngài gởi đến cho tôi một thông điệp: Chúa vẫn yêu con và hy vọng rằng con sẽ sống tốt hơn mỗi ngày, cũng trong cuộc sống tốt đẹp nhất của con, là luôn mang hình ảnh tươi sáng của Cha đến cho mọi người, để ngõ hầu cùng con mang các linh hồn về với Ta. Amen. 64. Con Vua Đavít – Mt 26,14 - 27, 66Hôm nay mỗi người cầm nhành lá trên tay đi kiệu là biểu dương vinh quang của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem như một vị vua. Nhiều người giơ cao nhành lá và tung hô vạn tuế Đức Vua. Số khác còn nhiệt tình cởi áo lót đường cho vua Giêsu tiến vào. Nhưng một điều rất lạ: Đức Vua đi vào thành trên lưng lừa chứ không phải là một tuấn mã oai phong. Đón mừng Ngài chỉ có đám đông môn đệ và dân chúng, chứ tuyệt nhiên không có ai trong giới lãnh đạo Do thái. Những người này có đó, nhưng không phải để đón mừng mà để bắt bẻ. Tất cả các dấu này đang báo trước một cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua. Cuộc thương khó Chúa Giêsu nhắc lại cho ta những đê hèn tội ác mà con người đã gây ra. Chúng ta nhớ lại sự hèn nhát của các môn đệ: Họ đã bỏ Ngài ngay những lúc Ngài cần có họ ở bên cạnh. Chúng ta nhớ lại lòng dạ xấu xa của những nhà lãnh đạo Do thái: Họ đã tìm mọi cách để vu khống và giết Chúa Giêsu. Chúng ta cũng nhớ lại sự hung dữ củ những người lính: Họ đã hành hạ Ngài cách tàn nhẫn. Chúng ta phải nhớ lại những điều ấy vì chúng có liên quan với chúng ta. Tuy nhiên, đó không phải là mục đích chính bài thương Khó. Điều mà tác giả Tin mừng muốn nhắc đến chính là tấm lòng của Chúa Giêsu. Điều mà chúng ta phải nhớ nhiều nhất đó là sự trung thành và lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã lãnh lấy tất cả tội lỗi con người vào chính thân mình Ngài. Ngài đã dùng cái chết trên thập giá để đền thay cho tất cả. Bài đọc I, sách Isaia đã cho ta thấy hình ảnh Người tôi tớ Thiên Chúa thật đau khổ. Người tôi tớ này không bao giờ cưỡng lại Thiên Chúa. Trái lại, luôn lắng nghe lời Ngài và làm theo ý Ngài. Người tôi tớ này không bao giờ chống lại sự áp bức của người khác. Người tôi tớ này đặt trọn niềm trông cậy vào Thiên Chúa. Mặc dù bản thân chịu đau khổ, Người tôi tớ lại tìm cách nâng đỡ những người đang chịu khổ đau. Hình ảnh Người tôi tớ đau khổ này đã được hoạ lại nơi con người Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không phải là một màn kịch nhưng là một sự thật. Ngài đã chịu rất nhiều đau khổ trong thân xác và trong tinh thần. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Những người Do thái cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài. Các binh sĩ La mã đã hành hung, đánh đập Ngài và cuối cùng treo Ngài trên Thập giá. Một hình phạt đau đớn nhất và sỉ nhục nhất. Nhưng tất cả những đau khổ ấy Ngài đã tự nguyện gánh chịu vì tội lỗi chúng ta và vì yêu ta. Chúng ta đã tuyên xưng rằng "vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta" nghĩa là chính tội lỗi chúng ta mà Chúa Giêsu đã bị treo trên thập giá. Tội lỗi chúng ta ngày nay là một lời chối bỏ, một tiếng reo hò, một sự sĩ vả hay một cái đinh đóng sâu vào thân thể của Chúa. Nhìn lên thập giá ta thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thập giá ta còn thấy tình yêu của Thiên Chúa đang bao trùm lên cả nhân loại. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhận thấy tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu không hề có một điều kiện, một tình yêu vượt lên mọi tiêu chuẩn phán đoán của con người. Tất cả chỉ nhằm đáp ứng khát vọng hạnh phúc của con người. Vì thế, khi nhìn lên thánh giá, không phải để ta thất vọng về những gánh nặng của tội lỗi vươn mang mà trái lại, để tâm hồn thêm phấn khởi và tin yêu hơn, vì Thiên Chúa luôn yêu thương và tha thứ cho con người. Nhìn bề ngoài thì xem ra cái chết của Chúa Giêsu là một thất bại hoàn toàn. Nhưng thực ra đó là một chiến thắng: Sự thiện đã chiến thắng sự dữ, tình yêu chiến thắng hận thù, ánh sáng sự thật đẩy lùi bóng tối bất công. Chúa Giêsu, Người đã chết thay cho mọi người, Người chịu mọi đau khổ chỉ để con người được sống và sống hạnh phúc. Tưởng niệm cuộc thương khó Chúa Giêsu, chúng ta nhìn ra hậu quả đáng ghét do tội lỗi con người gây ra đồng thời giúp ta cảm nếm tình yêu tự hiến của Con Thiên Chúa. Chính Chúa đã chết vì tội chúng ta và Chúa vẫn còn tiếp tục chết trên thánh giá để tha thứ tội lỗi mỗi người. Ta hãy tin tưởng nơi tình yêu tha thứ của Thiên Chúa và sẵn sàng chạy đến Ngài để được thứ tha. 65. Vào thành Giêrusalem - Mt 26,14 - 27,66Phúc cho Đấng nhân danh Chúa mà đến Anh chị em thân mến, Hôm nay là chúa nhật Lễ Lá. Nhìn vào khung cảnh của ngày lễ này, ta thấy hai điễm hoàn toàn trái nghịch nhau; một là cuộc kiệu Chúa vinh quang vào thành Giêrusalem. Hai là câu chuyện bài Thương khó diễn tả về cuộc Khổ nạn của Chúa, ngày thứ Sáu tới; câu chuyện đầy ảm đạm pha màu vô cùng tang tóc... Hai khung cảnh hoàn toàn trái ngược nhau... Vậy đâu là ý nghĩa mà Hội Thánh muốn ta tìm hiểu trong ngày lễ Lá hôm nay? Kính mời anh chị em cùng suy niệm... a/ Xin được kể một câu chuyện: Winston Churchill, Thủ Tướng nước Anh, sau một lần diển thuyết có cả chục ngàn người tham dự, một người bạn thân hồ hởi đến bên ông và nói: này Thủ Tướng, ông có sung sướng vì cả mười ngàn người hoan hô trong cuộc diển thuyết này không? W. Churchill bình tỉnh trả lời: "không, tôi không vui sướng vì chuyện đó đâu, vì khi tôi bị treo cổ, sẽ có cả trăm ngàn người đến coi tôi mà chê bai đả đảo..." Đúng như lời ông thủ Tướng Anh nói, Chúa Giêsu trong ngày lễ Lá được đón rước long trọng chừng nào, thì ngày thứ Sáu Thánh, lại có nhiều người đả đảo còn nhiều hơn nữa. Người ta thường nói: Tổng thống nước nào được đón rước long trọng, thì đến khi bị hạ bệ, ông sẽ có nhiều người đả đảo hơn nữa...Phần Chúa Giêsu, dĩ nhiên chúng ta biết, không phải hết toàn bộ những người lãnh đạo Do thái đều lên án giết Chúa, chỉ có một nhóm quá khích nhỏ mà thôi. Tuy nhiên câu chuyện ngày lễ Lá hôm nay có hai điễm gần như trái nghịch nhau. Đây là điều mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày lễ hôm nay... b/ Câu hỏi đầu tiên: Chúa Giêsu rất khiêm tốn, và thường hay tránh không để người ta tôn vinh mình, vậy tại sao trong ngày lễ Lá, Chúa để họ đón rước vào thành Giêrusalem long trọng như thế? Thực ra câu trả lời không khó. Thứ 1: Ở đây, Chúa Giêsu muốn hoàn thành mọi việc theo Thánh Ý Chúa Cha. Dĩ nhiên Chúa chẳng ham vinh quang trần gian, vì Chúa biết trước ngày Thứ Sáu tới, chính họ sẽ lên án giết Chúa. Thứ 2: Chúa để cho dân chúng đón rước, chính là muốn làm trọn lời ngôn sứ hầu chứng minh Người là Vua, là ngôn sứ đích thật; chính Người mở cuộc khải hoàn vinh quang vào Thiên quốc, cho Người và cho nhân loại, qua con đường đau khổ và phục sinh nơi chính bản thân Chúa. Câu hỏi thứ hai: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên khi chịu khổ nạn, Chúa vẫn có thể làm cho mình chịu roi đòn, nhưng không đau đớn, vì Chúa là Thiên Chúa nên Người muốn điều gì mà không được? Hỏi như thế có nghĩa là những đau khổ của Cuộc khổ nạn trong thân xác Chúa là giả tạo, vậy nếu tất cả là giả tạo thì làm gì chúng ta được ơn cứu rổi? Hơn nữa, nơi Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu là Sự Thật, là Chân Thiện Mỹ, thì làm sao có sự giả tạo được? Hiểu đến đó, chúng ta mới thấy, Chúa Giêsu trong bản tính con người, khi chịu Khổ Nạn, đã chịu mọi khổ hình đau đớn trong thân xác y như ta. Chính nhờ đó, nhân loại chúng ta mới được cứu rỗi. Và vì Chúa Giêsu thực sự đã chịu đau khổ trong thân xác NgườI, vì nhân loại chúng ta, rõ ràng điều đó cũng muốn nói lên: Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa, đã khiêm tốn biết bao, và chính vì cái giá của sự khiêm tốn đó, mới có thể đền thay cho bao nhiêu tội lỗi tầy trời của nhân loại chúng ta. c/ Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa, trong cuộc Khổ Nạn của mình, Chúa đã tỏ ra khiêm tốn biết bao, để đền tội cho ta. Con ta là tội nhân thì lại kiêu căng quá chừng, chúng ta nghĩ sao? Ta có thấy cần khiêm tốn như Chúa không? Ta có tin Chúa là Đấng Cứu Thế, là Chúa, là Adam mới, là Anh Cả của ta, đã chết để cho chúng ta được sống không? 66. Vua Người Nhân Ái – Mt 26,14 - 27,66Khung cảnh được trình bày trong đoạn Tin mừng hôm nay có thể nói là hoàn toàn đối nghịch lại với khung cảnh trong đoạn Tin mừng của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Đức Giêsu hôm nay xuất hiện như một vị vua mới được phong vương trở về, một vị vua hiền hậu và khiêm tốn "ngồi trên lưng lừa". Dân chúng thì hết lòng tung hô và tán tụng. Họ đã "trải áo xuống đường, chặt cành cây trải lối đi", miệng thì không ngớt lời hò la " Hoan hô con vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô trên các tầng trời". Còn Đức Giêsu của ngày thứ sáu Tuần Thánh. Đức Giêsu xuất hiện trong hình dạng "không còn hình tượng người ta nữa", bị đánh đòn, xỉ vả và nhục mạ. Dân chúng thì hò hét đòi "đóng đinh nó vào thập giá". Điều gì đã là cho mọi sự thay đổi như thế khi cũng chính là Đức Giêsu đó và cũng chính là đám đông dân chúng đó? Tại sao lại thế? Ai đã thay đổi? "Đức Giêsu vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy đến muôn đời". Ngài vẫn là vị Vua nhân ái, hiền từ và khiêm hạ. Ngài biết rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để cứu chuộc con người. Ngài tự nguyện chịu chết để cho con người được sống và Ngài đã làm người để cho con người được làm Chúa. Còn dân chúng: một dạ hai lòng. Họ chạy theo lợi lộc thấp hèn. Khi thấy Đức Giêsu không chiều theo sở thích của họ và không làm theo những gì họ mong muốn, hay khi thấy Đức Giêsu có vẻ yếu thế trước mặt các nhà lãnh đạo Do thái, họ liền trở mặt lại với Ngài, chối bỏ Ngài và muốn loại trừ Ngài. Hơn nữa, Đức Giêsu là người luôn nói lên sự thật, những sự thật xem ra quá "đụng chạm" đến tự ái của họ, đụng chạm đến quyền lợi của họ... nên họ phát điên lên trong lòng. Dù mâu thuẫn giữa Đức Giêsu và các nhà lãnh đạo Do thái và dân chúng đã lên đến đỉnh điểm, nhưng việc Đức Giêsu đi vào cuộc tử nạn là do sự tự nguyện của Ngài chứ không phải có ai làm gì được Ngài. Nói cách khác, dù cho các nhà lãnh đạo hay dân chúng có giận Đức Giêsu đến sôi gan tím ruột nhưng không ai có thể làm gì được Ngài, nhưng việc Ngài chịu nạn chịu chết là do tự ý Ngài muốn và vì đó là thánh ý của Chúa Cha nên Ngài muốn chu toàn cho đến cùng mà thôi. Andre, một tên tội phạm nguy hiểm và khét tiếng của Nước Bỉ, sau khi hoàn lương đã kể lại lịch sử của đời anh như sau: "Tôi từng là một tên tội phạm nguy hiểm, từng vào tù ra khám 5-7 lần, từng cướp nhà Băng và buôn bán ma tuý. Cuối cùng, tôi đã bị bắt và bị kết án 21 năm tù giam". Rồi trong nhà tù, có một linh mục đến thăm anh và trao cho anh cuốn sách Phúc âm. Nhận quyển sách nhưng anh chẳng buồn đọc. Nhưng chán quá rồi cũng mở ra xem. Xem thì xem vậy thôi chứ cũng chẳng hiểu gì và cũng chẳng tin gì, vì anh cho rằng những gì kể trong sách Phúc âm chỉ là những chuyện tưởng tượng mà thôi. Rồi có một lần buồn chán quá, anh đem sách Phúc âm ra và nói những lời đầy thách thức như sau: "Này ông Giêsu, ông có thật không? Nếu ông có thật và tài giỏi giống như cuốn sách kia kể thì tối nay mời ông đến đây, chúng ta nói chuyện với nhau. Nói xong rồi, anh ta lăn ra ngủ và cũng chẳng nhớ gì. Nào ngờ, đúng 2 giờ sáng, anh ta bị đánh thức dậy, chạy ra hỏi anh giữ ngục: "Anh gọi tôi à?" Nhưng anh giữ ngục bảo: "không, tôi đâu có gọi anh, vào ngủ đi". Anh vào ngủ lại và lại bị đánh thức. Lần này, có một tiếng nói rất uy nghi phía trên đầu anh: "Dậy đi con, mình có hẹn với nhau mà". Anh ta hỏi lại: "Ai thế?" "Ta là Chúa của mọi loài và là Thiên Chúa của con đây". Và ngay lúc ấy, anh thấy có một luồng ánh sáng rực rỡ, ánh sáng ấy xoá tan hết những sự vật trong căn phòng và trong luồng ánh sáng đó, một con người xuất hiện, người mà anh chưa gặp bao giờ. Con người ấy mang thương tích nơi chân, tay và cạnh sườn mình. Người ấy nói: "Ta là Giêsu, Chúa của con đây. Những vết thương này là vì con đó". Anh ta bàng hoàng kinh hãi và đầy xúc động. Và lập tức, từ một con thú dữ, anh trở thành một con chiên ngoan hiền. Anh gục đầu và khóc lóc thảm thiết. Giờ đây anh đã hiểu, vậy là suốt 37 năm qua, anh đã vô tình đóng vào tay, vào chân và cạnh sườn của Chúa những cây đinh đau đớn. Anh đã hoàn toàn bị qui phục và trở nên người con cái ngoan hiền của Chúa. Đó là những lời tự thuật của Andrê với các bạn trẻ khi anh đi thuyết trình khắp nơi trên thế giới. Như vậy, Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn, chịu thương tích là vì chúng ta đó. Chúng ta có suy nghĩ gì khi Chúa nói với chúng ta: "Những thương tích này là vì con đó!" Chúng ta có thật sự hoán cải và trở thành chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta nhận ra điều đó không? Hay chúng ta còn giữ trong mình thái độ của dân chúng ngày xưa, chạy theo những lợi lộc thấp hèn để phản đối Chúavà đòi đóng đinh Chúa của chúng ta? Đừng làm cho những vết thương nơi thân thể Chúa tiếp tục bị chảy máu nữa. Đừng tiếp tục đóng đinh Ngài nữa! 67. Lễ Lá trong đời thường - Mt 26,14 - 27,66Tham dự Thánh Lễ hôm nay, mỗi người sẽ nhận được một nhành lá được thắt rất xinh, và hầu như ai ai cũng đều gìn giữ nhành lá nầy rất cẩn thận vì nó đã được làm phép. Mỗi người một nhành lá trên tay để sống lại cảnh huy hoàng khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem năm xưa... Thánh Matthêu diễn tả khá sinh động quang cảnh nầy. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa con, có trải áo choàng, mặt đường cũng được dân chúng trải áo. Đám đông dân chúng tay cầm nhành lá, reo hò vang dậy: "Hoan hô con Vua Đavit! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!" (Mt 21,9). Thật hoành tráng! Khác gì người ta đang chào đón một nguyên thủ quốc gia hay một siêu sao, một thần tượng! Thế nhưng, chính những con người nầy hôm nay hò la, tung hô thần tượng của họ, cũng lại là những người đồng ý tha cho Baraba, để nhất quyết lên án tử cho thần tượng của họ: "Đóng đinh nó vào thập giá". Thật là "dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người"! Chúng ta vui mừng cầm lá trên tay, chúng ta hãnh diện được đứng vào hàng ngũ những kẻ "mặc áo dài trắng, tay cầm cành lá đang tung hô Thiên Chúa cùng Chiên Con" (Kh 7,9-10). Nhưng có bao giờ chúng ta nghĩ rằng mình đang cầm những mũi đinh nhọn tiếp tục đóng đinh Chúa không? Có câu chuyện về một cô bé: "Lễ Lá năm ấy, cô bé khoát một bộ áo dài trắng vào người, bước ra cổng để đi dự lễ. Bỗng... "Xoạt!"... Trên nền trắng của chiếc áo dài, loang lỗ đầy những vệt nước dơ. Chị Ba cùng xóm vì tránh chiếc xe đò đã chạy vào vũng nước, làm cho nước văng tung toé lên người cô bé. Chị luống cuống dừng xe lại: "Xin lỗi em! Chị vô ý quá!". "Lỗi với phải gì! Có mắt không mà không nhìn trước sau?". Cô bé gần như quát lên... Lựa được nhành lá đẹp nhất, cô bé hãnh diện cùng đám đông tiến vào nhà thờ... Nhưng... ngồi kế bên cô bé lại là chị. Thế là từ đó, đầu óc cô bé cứ nghĩ đến những "kế hoạch sẽ thực hiện" khi về đến nhà để cho chị "biết tay"... "Còn chúng ta, chúng ta đối xử với Chúa hiện diện nơi người khác như thế nào?". Lời giảng của Cha chủ tế kéo cô ra khỏi dòng suy nghĩ... Cô bé nhìn xuống... Nhành lá cô bé đang cầm sao giống lưỡi gươm đến như vậy...". Vâng, biết bao lần chúng ta tiếp tục giết Chúa bằng những mũi đinh, lưỡi kiếm là chính những lỗi lầm, sai sót của chúng ta. Chúng ta tham dự thánh lễ cách sốt sắng, nhưng khi trở về cuộc sống đời thường, chúng ta chưa sống tích cực cho danh nghĩa Kitô hữu của mình, thậm chí lại còn xung đột trong tương quan với Chúa và với tha nhân. Tung hô Chúa bằng lễ nghi thôi chưa đủ, chúng ta cần phải tung hô Chúa bằng chính cuộc sống của mình theo gương Chúa. Cuộc đời của ta phải là họa ảnh dung mạo Đức Kitô, một Đức Kitô hiền lành và khiêm nhượng trong lòng (x. Mt 11,29), một Đức Kitô không mắc nợ gì ai ngoài món nợ yêu thương. Lạy Chúa, hôm nay con cầm lá trên tay để đón Chúa, nhưng lòng con còn nhiều hận thù, ghen ghét. Đó là con mang gươm giết Ngài lần nữa. Xin Chúa biến đổi con, để con biết yêu Chúa, yêu anh em như Chúa hằng yêu mến con. 68. Người môn đệ bất chính - Mt 26,14 - 27,66Khi nhắc đến Giuđa thì ai cũng nghĩ đến kể phản bội, một con người không nghĩ đến tình thầy trò, nhẫn tâm bán Thầy hết mực yêu thương mình với giá 30 đồng, một cái gí rẻ mạt chỉ bằng một phần mười bình thuốc thơm mà bà Maria lấy để rửa chân Đức Giêsu. Qua lời nói đầy âm mưu không chút trong sáng, nhẫn tâm đến không còn tình người của Giuđa khi nói với các thượng tế và kỳ mục: "Tôi nộp ông ấy cho quý vị thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu". "họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc". Khi nghe đến đây, thì ai trong chúng ta cũng căm hận Giuđa, một con người ham mê tiền bạc và danh vọng, thích làm tôi của cải hơn là làm môn đệ của một ông thầy âm thầm nghèo khó, căm hận vì ông chọn ông Giêsu quyền lực thế gian hơn chọn ông Giêsu đang trốn chui trốn nhủi sợ người ta bắt bớ. Qua những hành động và lời nói, cũng như suy nghĩ của Giuđa, ta dễ dàng nhận ra ông là người môn đệ có những đặc tính sau: Ham mê tiền bạc. Giu đa cũng được chính Đức Giêsu tuyển chọn như các tông đồ khác, nhưng tại sao Giuđa lại phản bội? Có phải Đức Giêsu quá khó khăn với ông chăng? Hay vì được giữ túi tiền nên ông đã thâm lạm. Tất cả những nguyên nhân trên hầu như không hoàn toàn thuyết phục. Chính ý tưởng bán Thầy của ông đã được hình thành khá sớm, không chỉ có ông bị ý tưởng này làm lung lạc, mà cả các tông đồ khác cũng thế. Nhưng những người khác chỉ bị lung lay trong chốc lát, rồi sau đó tỉnh ngộ ngay nhờ đức tin của Phêrô: "Thưa Thầy bỏ Thầy chúng con biết đến với ai". Còn Giuđa có tai mà không nghe, có mắt mà như mù, cứ u mê trong sự lôi cuốn của tiền bạc. Cho đến nỗi Đức Giêsu như muốn chỉ ra ông để cảnh tỉnh "Thế mà một người trong anh em là quỷ", mà ông vẫn còn chưa chịu sáng mắt tỉnh ngộ. Cách đánh giá đúng nhất về Giuda, chính là nhận định theo Tin mừng Gioan "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo". Chạy theo danh vọng. Không phải chính mình Giuđa mới lầm tưởng về công việc của Đấng Cứu Thế, mà hầu như tất cả. Cho đến lúc Đức Giêsu sắp chịu khổ nạn các môn đệ vẫn còn lầm tưởng về sứ mạng của Ngài, họ vẫn ao ước vào một cuộc chiến thắng khải hoàn như các vua chúa trần gian. Một cuộc khải hoàn chiến thắng tràn đầy danh vọng, chức tước, và hy vọng sẽ được chia sẻ vinh quang trần thế với Ngài. Các môn đệ vẫn còn sống trong ảo tưởng đó mãi cho đến đêm bị bắt trong vườn Giêtsêmani. Còn Giuđa thì như một con người đi quá đà, hình ảnh ông thầy Kitô của mình phải như ý mình muốn, và chính Giuđa cũng được Đức Kitô cho nhiều cơ hội để cảnh tỉnh, để lựa chọn. Nhưng trong đầu ông lúc này chỉ có danh vọng và danh vọng, không còn lòng đơn sơ chân thành, không chấp nhận Thầy nữa, mà tự tạo cho mình một Đức Kitô ích kỷ, vụ lợi. Có thể nói ông rất thất vọng vọng về hình ảnh Đức Kitô mà ông mong muốn với Đức Kitô thực tế. Vì thế ông bắt đầu ghét Ngài và bán Ngài để trả thù vì bị thất vọng. Sống giả hình. Trong số các tông đồ, có thể nói Giuđa là người có học thức cao nhất, nên đã được phân công làm thủ quỹ giũ tiền. Nhưng thay vì sử dụng những tài năng của mình để làm giàu cho Nước Trời, thì ông lại dùng nó như một sự khôn ranh để qua mặt Thầy vá các anh em. Như qua lời nói: "Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo". Ta dễ dàng nhận ra giữa hành động và lời nói của Giuđa không thống nhất "miệng nam mô, bụng bồ dao găm". Trong khi miệng nói như thế, nhưng lòng lại mưu mô lừa lọc định qua mặt mọi người. Hơn thế nữa, khi đối diện với chính Thầy mình, đối diện với thực tế mà ông còn giả bộ như một môn đệ trung thành khi mở miệng hỏi: "Rap-bi, chẳng lẽ con sao?". Đến giây phút cuối cùng mà Giuda còn muốn qua mặt Thầy, qua mặt các môn đệ, và cuối cùng kết thúc bằng "nụ hôn" thể hiện tình yêu nộp Thầy. Trong cuộc sống lữ hành chúng ta đang đi trên rất nhiều con đường, có thể chúng ta đang đi trên con đường của Giuđa, con đường của Phêrô, hay con đường của Hêrôđê. Nếu chúng ta đã lầm đường lạc lối, thì tuần thánh và ngay bây giờ chúng ta hãy bắt đầu lại, hãy quyết tâm đi trên con đường mà Chúa đã đi, đã chọn và chịu chết để được Phục Sinh. Lạy Chúa! Xin cho con biết can đảm dứt bỏ tội lỗi, bởi vì một khi con nhượng bộ cho tội lỗi là con đã bán Chúa như Giuđa ngày xưa. Amen. 69. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô – Mt 26,14 - 27,66Vài lưu ý để hiểu bài Thương Khó. - Được viết với cái nhìn hậu Phục Sinh nhưng có lẽ trước nhất trong các văn bản Phúc Âm vì ngay khi các tông đồ bắt đầu rao giảng là "Đức Giêsu mà các ông đã đóng đinh, chết treo thập giá đã sống lại vinh quang". Lời rao giảng nầy được lập đi lập lại bằng truyền khẩu rồi thì có bản văn cho nhiều người tham gia rao giảng dể hơn. - Là phần viết có nhiều chi tiết có tính lịch sử nhiều nhất nhưng không có tông đồ nào là chứng nhân nhản tiền vì khi Đức Giêsu bị bắt các ông đều trốn mất hết chỉ có Gioan có mặt dưới chân thập giá nhưng không chắc là có theo Đức Giêsu suốt đường thập giá. Về tuần tự diển biến các sự việc thì bốn bài giống nhau như đã xảy ra. - Các tác giả không viết tường thuật hay trình thuật như quen gọi nhưng sáng tác với ý tưởng thần học riêng như với Mt là "để Kinh Thánh được trọn". Mc và Lc thì hoàn toàn lấy từ tài liệu "rao giảng". Ga thì là "những suy tư "thần học". Biến cố Đức Giêsu còn được ghi vào ký ức của các tông đồ mỗi nguời mỗi khác tùy cơ địa mỗi người. Rồi mỗi người khi rao giảng lại lựa chọn những gì thích hợp để cống hiến cho cộng đoàn và như thế mà có các sách như Phúc Âm theo thánh Mt (đặc biệt Mt còn phải quan tâm nhiều tới những lời Kinh thánh Cựu Ước đã tiên báo). Vì vậy mà có nhiều chi tiết khác nhau (khác nhau lớn nữa). Bài Thương Khó theo Mt có các chi tiết tóm tắt như sau: - Đức Giêsu bị bắt: Giuda dẫn đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Chào hôn Đức Giêsu. Một trong những kẻ theo Đức Giêsu tuốt gươm chém đứt tai (4PÂ)... Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. (Mt và Mc). - Đức Giêsu ra trước Thượng Hội Đồng: Thượng Tế Caipha, các kinh sư và kỳ mục họp sẵn. Phêrô theo xa xa. Họ tìm lời chứng gian để buộc tội Đức Giêsu... Phá đền thờ Thiên Chúa đi rồi nội ba ngày Ta sẽ làm lại. Đức Giêsu làm thinh... Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?... Chính Ngài nói đó. Hắn nói phạm thượng. Hắn đáng chết. Rồi họ khạc nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, có kẻ tát Người. - Phêrô chối: Tôi không biết... Gà chưa kịp gáy thí anh đã chối Thầy ba lần. Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. - Trước Philatô: Ông có phải là vua dân Do thái không? Chính Ngài nói đó. Vợ Philatô chiêm bao. Dân chúng đòi tha Baraba đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Philatô rửa tay "tôi vô can trong việc đổ máu ngưới nầy". Máu nó cứ đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi. Philatô trao Người cho quân lính đánh đòn rồi đem đi đóng dinh vào thập giá. - Đức Giêsu đội mũ gai: quân lính cho người đội mũ gai, cầm gậy là một cây sậy (vương trượng) rồi quỳ lạy"vạn tuế Đức vua dân Do thái". Chúng khạc nhổ vào Ngưới, lấy cây sậy đập lên đầu Người, mặc áo lại như trước rồi điệu Nguời đi đóng đinh vào thập giá. - Đức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá: Dọc đường có Simon vác đỡ thập giá. Đến nơi gọi là Núi sọ, cho uống rượu pha mật đắng. Đóng đinh Người vào thập giá xong, chúng rút thăm chia áo Người. Phía trên đầu Người có bản án INRI. Bị sỉ vả nhạo cười trên thập giá: Mi phá đền thờ và trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi. Nếu là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào.... Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Người. - Đức Giêsu chết trên thập giá: từ mưới hai giờ trưa bóng tối bao phủ cả mặt đất cho tới ba giờ chiều... Để coi Êlia có đến cứu hắn không. Đức Giêsu kêu lớn tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng. Bức màn trong đền thờ xé ra làm hai, từ trên xuống dưới. Đất run đá vở, mồ mả mở toan, xác của nhiều vị thánh đời xưa trổi dậy, ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra với nhiều người. Ông đại đội trưởng và lính canh mộ sợ hãi, ông tuyên xưng "Ông nầy là con Thiên Chúa". Vài điểm cần giải thích: - Từ mười hai giờ trưa bóng tối bao phủ cả mặt đất cho tới ba giờ chiều: cách nói ẩn dụ ám chỉ "chiến thắng của tối tăm" trong một lúc. - Trút hơi thở cuối cùng: Dịch sát chữ. Mc và Lc: tắt thở. Ga: trao trả thần khí (‘remit son esprit’ theo Bible de Jerusalem). Còn có cách nói "trút linh hồn". Có bản chú thích là Đức Giêsu "ban lại thần khí" mà Người đã lãnh nhận cho thế gian. - Bức màn trong đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới: sân khấu thì gọi là kéo màn ra, mở màn. Ẩn dụ ám chỉ: Bức màn trong đền thờ là để ngăn phần cực thánh (thượng tế chỉ vào được một lần trong năm) với phần còn lại của cung thánh. Kéo màn ra là mở màn không che nữa. Mạc khải cũng có nghĩa là vén màn. Đức Giêsu chết, chấm dứt mạc khải chính thức về Thiên Chúa, vì đã đầy đủ. Không còn bức màn, con người có thể đến được với Thiên Chúa. Hoàn tất công trình mạc khải "cứu độ". - Đất run, đá vở, mồ mả mở toang, xác của nhiều vị thánh đời xưa trỗi dậy, ra khỏi mồ....: (Đức Giêsu xuống ngục tổ tông) Bình giải ý tưởng trong Cựu Ước (riêng của Mt): Khi nghe tiếng Con Thiên Chúa những kẻ ở trong mộ sẽ trỗi dậy ra khỏi mồ "sống lại". Ơn cứu độ là làm cho sống lại. Đức Giêsu đã hoàn thành ơn cứu độ. Đã có sự sống lại. Những vị thánh đời xưa là những kẻ sống lại trước vì đang chờ đợi. Để ra khỏi mộ thì mộ phải mở ra, phải có động đất "đất run, đá vỡ". - Vào thành thánh hiện ra với nhiều người: Có vào thành hiện ra mới có người thấy mới biết. Là văn chương ẩn dụ. Còn được chú giải là "vào thánh thánh Giêrusalem "mới". Hoặc là "Đức Giêsu xuống ngục tổ tông công bố ơn cứu độ cho các tổ phụ và rước các ngài lên trời vì "trời đã mở ra". Sự chết đã bị bẻ gãy, sự sống đã được "cứu" phục hồi cho nhân loại. Qua bài thương khó chúng ta thấy về mặt hiện tượng: Đức Giêsu chết do sự xung đột với người do thái bắt đầu ngay lúc Người khởi đầu hoạt động công khai giữa cái mới-cũ, giữa quyền lợi, địa vị và từ bỏ khó nghèo. Sự xung đột có vẻ tự nhiên nhưng cũng có vẻ là Đức Giêsu chủ động tạo ra và gia tăng để đưa tới kết thúc là cái chết. Còn ý nghĩa, cách thức, mức độ cực nhọc, đau khổ... của cái chết là do Đức Giêsu tự nguyện chọn lấy bằng cách "Người làm thinh", mặc ai làm gì thì làm. Lòng dạ độc ác thì phải đạt đỉnh nếu được "để mặc". Thần học của Giáo Hội mới giải thích ý nghĩa cứu độ tiềm ẩn bằng phạm trù của những lãnh vực khác nhau. Bị hạ xuống rốt cùng là thể hiện sự vâng phục tột đỉnh, chuộc lại sự không vâng phục tích lũy từ đầu lịch sử nhân loại cho đến ngày nay. Như vậy là vì YÊU. Tình yêu là động lực. Chúng ta không nhìn thập giá và một thây ma bầm dập, máu me, đầy thương tích mà thương khóc. Chúng ta không tôn vinh thập giá và khổ hình vì dù là của Chúa Giêsu cũng vẫn là sự dữ ghê tởm. Hãy nhìn thấy ở đó sự tự hạ tự hủy mà Đức Giêsu, tự nguyện chấp nhận, gánh lấy để tỏ hiện một sự vâng phục tột đỉnh để chuộc tội, để đền bù tội lỗi chúng ta, chết vì tội chúng ta nơi Chúa Cha. Chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu chuộc tội chúng ta là vâng phục để chuộc lại sự không vâng phục của nhân loại từ thế hệ Adam đến chúng ta. Đền bù tội lỗi chúng ta cũng từ Adam vì có tội thì phải đền. Chết vì chúng ta là chuộc tội, là đền tội để cứu chúng ta thì chúng ta mới được sống. Cốt yếu là làm gương, là đi trước dẫn đường và dạy chúng ta biết ý của Chúa Cha mà vâng phục như Người để được cứu. Không phải Người đã chuộc tội, đã đền bù tội lỗi chúng ta, đã chết vì chúng ta thì chúng ta khỏi rồi, sống rồi, khỏi phải làm gì nữa. Tha hồ tiếp tục. Chúng ta phải cảm kích tình yêu của Người, đáp lại lời mời gọi của thập giá "đi theo Đức Giêsu", vác thập giá mình, thập giá của cuộc đời mình như Người đã vác cho chúng ta thấy mà noi theo. Ôi thập giá là muôn lời nhắn gọi Hãy đến nào, đến để cạn nguồn yêu Ôi thập giá là nhuốc nhục trăm chiều Mà Chúa chịu vì yêu người nhân thế.
70. Định mệnh an bài!--Như HạThời gian nào cũng là thời gian. Nhưng không phải thời gian nào cũng giống thời gian nào. Mỗi người sẽ trải qua những giây phút cực kỳ quan trọng. Đức Giêsu đã biết trước những giây phút đó. Cuối đời Người là một chuỗi vinh nhục. TÌM MỘT CON ĐƯỜNG. Dù khi vinh quang vào thành Giêrusalem hay tơi tả dưới làn mưa roi, Đức Giêsu chỉ biết vâng theo thánh ý Chúa Cha mà thôi. Đó là con đường dẫn tới vinh quang. Con đường phục vụ luôn sáng chói giữa những tương quan chằng chịt và biến cố bất ngờ. Tương quan trần gian thật mỏng manh. Có ai đáng tin cậy hơn các môn đệ? Thế mà ông Phêrô "chối Chúa trước mặt mọi người" (Mt 26,71). Giuđa "nộp Đức Giêsu." (Mt 26,16.48) "Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết" (Mt 26,56). Cháy nhà mới ra mặt chuột! Nhưng Đức Giêsu không lệ thuộc vào con người dòn mỏng. Chỗ dựa không phải là con người. Sức mạnh cũng không phải là gươm giáo gậy gộc, nhưng là "Cha Thầy" với "mười hai đạo binh thiên thần" (Mt 26,53) Bởi vậy, Người mới có thể đứng vững trước bao thử thách. Qua bao đoạn đường gập ghềnh, Người vẫn thẳng bước, vì mục tiêu đã được xác định dứt khoát. Mục tiêu đó chính là vinh quang Thiên Chúa. Có lúc vinh danh Chúa Cha và Chúa Con không tách lìa. Chính lúc vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu tưởng như đã lên chín tầng mây với Chúa Cha khi dân chúng tung hô: "Hoan Hô Con vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời." (Mt 21, 9) Nhưng Người cũng thấy vinh quang Chúa Cha tràn ngập ngay cả lúc nghe những lời nhục mạ: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?" (Mt 26, 68) hay khi "lính của tổng trấn quì gối trước mặt Người mà nhạo rằng: 'Vạn tuế Đức Vua dân Do thái!'" (Mt 26,29) Một nguồn bình an khôn tả khỏa lấp con tim ngay giữa cảnh "kẻ qua người lại đều nhục mạ Người." (Mt 27,39) Vinh quang vẫn lóe lên ngay trong đêm đen hận thù: "Nếu mi là Con Thiên Chúa… Hắn là Vua Ítraen! Hắn đã nói: 'Ta là Con Thiên Chúa!'" (Mt 27, 40.42.43) Đã đến lúc Cha làm vinh danh Con. Đứng trước các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng, Người vẫn khẳng quyết mình "là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa." (Mt 26,65) và trước mặt tổng trấn Philatô, Người xác nhận mình là "vua dân Do thái." (Mt 27,11) Đứng giữa đám đông khát máu đang gào thét: "Đóng đinh nó vào thập giá!" (Mt 27,23.25.26), Đức Giêsu vẫn nghiễm nhiên vươn lên như Đấng "Kitô" (Mt 27,22) Tất cả xảy ra không ngoài "ý cha" (Mt 26,39). Những lúc "làm thinh" (Mt 26,63) hay "không trả lời một tiếng" (Mt 27,12) là những lúc Đức Giêsu kiên cường bất khuất trước cường lực đối phương. Người như chìm sâu trong tình yêu Thiên Chúa để tìm một lối thoát cho những bế tắc hiện tại. Càng nhìn lên cao, Người càng không thấy lý do phải đối đầu với những toan tính thấp hèn như thế. Chấp nhận cái chết nhục nhã để thi hành thánh ý Cha, chứ không chịu uốn cong ba tấc lưỡi để tìm đường chạy trốn khỏi định mệnh. Nếu chối bỏ sự thật về mình, chắc chắn Người đã không khơi bùng ngọn lửa căm hờn trong lòng các thượng tế và dân chúng. Nhưng Đức Giêsu đã không hèn nhát đi tìm một con đường dễ dãi như thế. Ngay cả khi giang tay trên thập giá, Người cũng không chấp nhận những thách thức rẻ tiền để chứng minh mình là "Con Thiên Chúa" (Mt 27,43). Không thể tìm thấy chân lý nơi những ồn ào phức tạp đó. Chính trong thinh lặng và cầu nguyện, Đức Giêsu đã khám phá được tất cả nét hào hùng và dịu ngọt của tình yêu Thiên Chúa. Tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đã có thể mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa tình yêu ngay giữa lúc tâm hồn đang cay đắng vì cảnh Giuđa "nộp Người" (Mt 26,48) và "tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy." (Mt 26,31) Chính khi mọi tương giao nhân loại bị bứt tung, Đức Giêsu lại mạc khải "đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội." (Mt 26,28) Máu Thầy đem lại sự giải thoát cho toàn thể nhân loại. Tất cả kế hoạch thâm hiểm của con người vô tình đã làm cho máu Thầy đổ ra theo đúng chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Khám phá và chấp nhận tất cả chương trình tình yêu Thiên Chúa đòi nhiều sáng suốt và can đảm. Chính vì vậy, trước khi nộp mình vào tay các quân lính thượng tế và kỳ mục, Đức Giêsu đã cầu nguyện ba lần trong vườn Ghếtsêmani. Trước giờ phút cực kỳ quan trọng đó, các môn đệ vẫn vô tình như đã vô tình từ trước đến nay. Lúc nào họ cũng chỉ quan tâm đến quyền lợi riêng. Họ có thể dùng chính những mỹ từ thân thương và cử chỉ âu yếm để che dấu sự phản bội (x. Mt 26,49). Những dấu chỉ tình yêu đó và những lời khẳng quyết "không chối Thầy" (Mt 26,35) đều mất hết ý nghĩa. Có nhiều lúc ngôn từ không mang nổi nội dung diễn đạt. Nhưng nếu cố tình phản bội nội dung ngôn từ, con người sẽ phải trả giá. Sau khi nuốt lời hứa, ông Phêrô "ra ngoài, khóc lóc thảm thiết." (Mt 26,75) Giuđa cũng hối hận không kém: "Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan." (Mt 27,4) rồi "Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ." (Mt 27,5) Hối hận đến thế vẫn chưa đủ sao? Tại sao phải thắt cổ mới xứng với việc đền bù? Thật là một mầu nhiệm. Giuđa đã trả giá quá mắc! Chúa có đòi vậy đâu! NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH. Điều Chúa đòi là người môn đệ phải chân thành với chính mình. Sau khi chối Chúa, ông Phêrô đã "khóc lóc thảm thiết" vì thấy mình quá yếu đuối. Còn ông Giuđa không hề khóc lóc, chỉ giận dữ lên án chính mình và tự xử cho mình, không kiên nhẫn đợi giây phút trở về với Cha nhân lành. Từ chỗ ồn ào hăm hở trả giá Thầy, ông đã đụng đầu một cái tôi rối loạn đến nỗi không còn nhận ra sự thật về mình. Muốn tránh được tai họa thảm khốc đó, "trên hết trong xã hội tục hóa ngày nay, cần phải có một mục tiêu rõ ràng và một ý chí kiên vững, trực tiếp phát sinh từ những nguồn mạch Phúc âm chân chính." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 18/03/2002) Sống với Thầy suốt một quãng đường dài, nhưng ông Giuđa không hề một lần kinh ngạc về thực tại trước mắt. Thói quen và lối sống hằng ngày đã bưng mắt không cho người môn đệ thấy sự thật về Thầy. Mọi sự đương nhiên phải như thế! Thực tế mọi sự chẳng sẵn sàng như ta tưởng. Chính Thầy cũng không hiện diện đấy như một thực thể nằm sẵn trong tầm tay. Không coi Thầy như một giá trị tuyệt đối, không thể khám phá Thầy như một chân lý giải thoát. Nhất là trong thế giới ngày càng xa lạ với Thiên Chúa hôm nay, con người không biết mình là ai và tại sao mình sống. Triết lý sẽ giúp con người khám phá ra chiều kích sâu xa đó. Nhưng chỉ "khi triết lý gặp gỡ Đức Kitô trong Tin Mừng, thì Tin Mừng thực sự mới bắt đầu lan tỏa khắp thế giới." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) Hiện nay, công bố Phúc âm ngày càng gặp nhiều khó khăn vì hoàn cảnh văn hóa phức tạp (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002). Trong thế giới quá ồn ào hôm nay con người không còn thời giờ khám phá những giá trị vô cùng quan trọng và cần thiết cho cuộc sống. Nếu không thấy mình có "bổn phận nặng nề phải chuyển đạt những giá trị nhân bản, tinh thần và thiêng liêng cho các thế hệ trẻ," (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) cha mẹ và nhà giáo sẽ không thể cung cấp cho xã hội tương lai những con người chân chính và đầy trách nhiệm đối với xã hội. Chỉ trong xã hội đầy những con người như thế mới có thể loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu như Đấng cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại.
|